Trong
loạt
sự
kiện
tham
vấn
ý
kiến
các
chuyên
gia
kinh
tế
về
vấn
đề
của
Việt
Nam
trong
năm
2011
và
triển
vọng
năm
2012,
Câu
lạc
bộ
Doanh
nghiệp
dẫn
đầu
(LBC)
đã
có
dịp
phỏng
vấn
TS
Nguyễn
Đình
Cung,
Phó
Viện
trưởng
Viện
Nghiên
cứu
Quản
lý
Kinh
tế
Trung
ương.
Dưới
đây
là
chi
tiết
bài
phỏng
vấn
TS
Nguyễn
Đình
Cung
vào
ngày
02/11/2011,
tại
Hà
Nội.
TS
Nguyễn
Đình
Cung:
"Việt
Nam
phải
thay
đổi
mô
hình
tăng
trưởng"
-
ảnh:
Internet
Theo
đánh
gía
của
TS,
tình
hình
kinh
tế
thế
giới
và
khu
vực
Châu
Á
hiện
nay
như
thế
nào?
Thế
giới
sau
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
đã
lâm
vào
tình
trạng
trì
trệ
khá
nặng
nề.
Rất
nhiều
tổ
chức
kinh
tế
toàn
cầu
trước
đây
luôn
“nhã
nhặn”
và
“mềm
mỏng”
trong
việc
nhận
xét
như
Ngân
hàng
Thế
giới
(WB),
IMF…
cũng
đã
thẳng
thắn
hơn
về
tình
hình
khó
khăn.
Theo
WB,
hầu
hết
các
nền
kinh
tế
phát
triển
trên
thế
giới
đều
không
hoặc
bị
âm
chỉ
số
tăng
trưởng,
như
Ý:
-0,1,
Tây
Ban
Nha:
-03,
Canada:
-04.
Còn
theo
IMF,
ngay
cả
“gã
khổng
lồ
mới
nổi”
Trung
Quốc
cũng
không
thoát
khỏi
sự
khó
khăn
chung
trên
thế
giới
với
mức
tăng
trưởng
giảm
từ
9,5%
xuống
còn
8,7%.
Tuy
được
dự
đoán
sẽ
khả
quan
hơn
trong
năm
2012,
nhưng
nền
kinh
tế
thế
giới
còn
phụ
thuộc
rất
nhiều
vào
cách
ứng
xử
của
các
nền
kinh
tế
phát
triển
như
Mỹ,
khu
vực
Châu
Âu
và
Trung
Quốc.
Xin
TS
cho
nhận
xét
về
tình
hình
hiện
tại
của
kinh
tế
Việt
Nam?
Tốc
đô
tăng
trưởng
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam
trước
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
thế
giới
năm
2007-2008
khá
cao,
luôn
ổn
định
trên
mức
7%
từ
năm
2002
nhưng
giảm
rõ
rệt
xuống
mức
trung
bình
6,1%
từ
năm
2008
đến
năm
nay
(năm
2011
dự
đoán
tăng
trưởng
6%).
Trong
khi
đó,
mức
lạm
phát
lại
tăng
khá
nhanh,
từ
mức
6.9%
năm
2009,
11,9%
năm
2010
và
năm
2011
dự
đoán
là
17%.
Một
vài
chỉ
số
cho
thấy
sự
khó
khăn
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam
trong
năm
2011
như
chỉ
tạo
được
1,54
triệu
việc
làm,
giảm
600
ngàn
so
với
chỉ
tiêu;
tỷ
lệ
hộ
nghèo
chỉ
giảm
1,5%
so
với
chỉ
tiêu
2%;
Nhập
khẩu
tăng
27,2%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước.
Tuy
nhiên,
bức
tranh
không
phải
hoàn
toàn
xấu
mà
bên
cạnh
đó
là
sự
tăng
trưởng,
như
bán
lẻ
trong
10
tháng
đầu
năm
tăng
23,1%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước;
xuất
khẩu
tăng
34,6%;
chỉ
số
sản
xuất
công
nghiệp
tăng
5,3%.
Vấn
đề
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam,
như
nhiều
chuyên
gia
cảnh
báo,
nằm
trong
ba
vấn
đề:
(1)
Sự
“khỏe
mạnh”
của
phân
khúc
ngân
hàng,
nhất
là
các
NHTM;
(2)
Các
điều
kiện
khó
khăn
cho
khu
vực
doanh
nghiệp
sản
xuất
với
chi
phí
đầu
vào
tăng
và
nhu
cầu
giảm
mạnh
–
điều
này
thể
hiện
qua
mức
hàng
tồn
kho
trong
tháng
10/2011
là
21,1%
so
với
cùng
kỳ
năm
trước;
và
(3)
Sự
phân
bố
đầu
tư
còn
thiếu
hợp
lý.
Theo
TS,
những
giải
pháp
hiện
nay
có
đáp
ứng
được
nhu
cầu
giải
quyết
các
vấn
đề
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam?
Trong
năm
2011,
chính
phủ
đã
rất
tích
cực
giảm
lạm
phát,
kích
cầu
và
đặc
biệt
là
sử
dụng
các
công
cụ
tài
chính
để
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô.
Tuy
nhiên,
chính
sách
tài
khóa
lại
chưa
thực
hiện
triệt
để,
chưa
phối
hợp
được
với
chính
sách
tiền
tệ,
làm
cho
tiền
tệ
phải
“gồng
mình”
chống
đỡ
lạm
phát.
Thêm
vào
đó,
các
giải
pháp
tái
cơ
cấu
nền
kinh
tế
vĩ
mô
vẫn
chưa
thực
sự
được
triển
khai,
tạo
nên
một
bức
tranh
khá
“mong
manh”,
mọi
dấu
hiệu
thay
đổi
về
chính
sách
đều
có
thể
làm
cho
lạm
phát,
bất
ổn
vĩ
mô
quay
lại.
Ngoài
ra,
dù
đã
được
đề
cập
nhiều
nhưng
việc
thắt
chặt
ngân
sách
vẫn
chưa
thể
hiện
hiệu
quả:
tổng
thu
vẫn
tăng
13,6%
so
với
dự
kiến
với
hơn
80
ngàn
tỷ,
tổng
chi
tăng
gần
10%
so
với
dự
kiến
với
khoản
71
ngàn
tỷ.
Bội
chi
dự
kiến
ở
mức
121
ngàn
tỷ,
khoản
4,9%
so
với
GDP.
Nói
chung
các
chính
sách
vẫn
chưa
có
tác
động
rõ
rệt
đến
nền
kinh
tế.
Xin
TS
nhận
xét
về
tiềm
năng
của
nền
kinh
tế
Việt
Nam
trong
năm
2012?
Một
vài
chỉ
số
cho
thấy
một
tương
lai
khả
quan
hơn
trong
năm
2012
như:
GDP
tăng
6-6,5%;
xuất
khẩu
tăng
13,1%,
đạt
mức
107,4
tỷ
USD;
nhập
siêu
bằng
11,5%
xuất
khẩu,
đạt
mức
12,4%;
thặng
dư
cán
cân
vốn
vào
khoản
10.030
tỷ
đồng
và
thặng
dư
tổng
thể
vào
mức
3.160
tỷ
USD.
Tuy
nhiên,
bên
cạnh
đó
là
dự
đoán
về
bội
chi
ngân
sách
161,6
ngàn
tỷ
đồng,
bằng
5,45%
GDP
theo
giá
thực
tế;
thâm
hụt
vãng
lai
vào
khoản
4.370
triệu
USD.
Một
số
giải
pháp
mà
chính
phủ
Việt
Nam
có
thể
làm,
cả
ngắn
và
trung
hạn:
(1)
tiếp
tục
thắt
chặt
tín
dụng
đối
với
những
thị
trường
rủi
ro
cao
như
BĐS,
chứng
khoán;
(2)
kiên
trì
chính
sách
kềm
chế
lạm
phát,
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô
–
tăng
khống
chế
tiền
tệ
qua
các
chính
sách
như
năm
2011;
(3)
hỗ
trợ
cho
các
DN
vừa
và
nhỏ.
vì
đây
là
một
trong
những
lực
lượng
sản
xuất
quan
trọng
nhất
của
nền
kinh
tế;
(4)
tái
cơ
cấu
đầu
tư,
đặc
biệt
là
các
các
nhà
đầu
tư
nhà
nước,
các
tập
đoàn,
tổng
cty
của
chính
phủ;
(5)
tái
cơ
cấu
hệ
thống
tài
chính,
đặc
biệt
là
NHTM;
và
(6)
phân
tích,
chọn
lựa
hạng
mục
đầu
tư
cẩn
thận
và
có
chiến
lược
lâu
dài.
Vấn
đề
của
Việt
Nam
là
chỉ
nên
đầu
tư
2-3
hạng
mục
và
thực
hiện
thật
tốt
thay
vì
ôm
đồm
9-10
hạng
mục.
Đây
là
thời
điểm
đầy
“đau
đớn”
nhưng
phải
diễn
ra.
Tầm
quan
trọng
của
nó
cũng
như
"Đổi
mới",
đây
là
lúc
Việt
Nam
phải
thay
đổi
mô
hình
tăng
trưởng,
chuyển
từ
“lượng”
sang
tập
trung
vào
“chất”.
Xin
cám
ơn
TS.