Việc
Chính
phủ
dự
báo
mức
thu
cao
cho
năm
2012
dựa
trên
số
thu
(cũng
cao)
của
năm
nay
(số
thực
hiện)
tức
là
đã
chấp
nhận
một
nền
tảng
thuế
cao
dựa
trên
lạm
phát
cao.
Ba
tiền
đề
cụ
thể
về
tái
cấu
trúc
nền
kinh
tế
Việt
Nam
được
đưa
ra
mới
đây
là
tái
cấu
trúc
đầu
tư
công,
hệ
thống
ngân
hàng
và
các
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Thật
sự
tái
cấu
trúc
đầu
tư
công
chỉ
là
một
phần
của
vấn
đề
căn
bản
hơn
là
tái
cấu
trúc
cả
hệ
thống
tài
chính
công
để
góp
phần
cụ
thể
vào
việc
ổn
định
kinh
tế
vĩ
mô
cũng
như
tái
cấu
trúc
nền
kinh
tế
trong
trung
hạn.
Một
đề
xuất
của
chúng
tôi
là
tái
cấu
trúc
trong
ba
lĩnh
vực
nói
trên
nên
sớm
được
triển
khai
bởi
ba
ủy
ban
riêng
biệt
có
sự
tham
dự
của
cả
giới
hữu
trách
cao
cấp
lẫn
các
chuyên
gia
khoa
học
từ
bên
ngoài
chính
phủ
và
với
một
thời
hạn
rõ
rệt
2-3
tháng
để
đưa
ra
các
đề
xuất
chính
sách,
nếu
muốn
đạt
hiệu
quả
cao
cho
việc
thay
đổi
chính
sách
ngay
đầu
năm
2012.
Nhưng
đề
nghị
chính
của
chúng
tôi
là
trong
quá
trình
tái
cấu
trúc
tài
chính
công,
Bộ
Tài
chính
và
các
Ủy
ban
Tài
chính
ngân
sách
và
Kinh
tế
của
Quốc
hội
cần
thảo
luận
để
thay
đổi
cách
thức
dự
báo
ngân
sách
hàng
năm
để
tránh
ngay
một
nhầm
lẫn
“có
sẵn”
hay
“định
trước”
(built-in
error)
hàng
năm
trong
việc
xây
dựng
một
chỉ
số
lạm
phát
cao
tiềm
tàng
trong
các
số
thu
và
chi
cao
của
ngân
sách
cho
năm
tới,
dựa
hoàn
toàn
trên
một
dạng
tiền
ảo
(money
illusion)
hay
nói
đơn
giản
hơn
là
bao
gồm
“vấn
đề
tạo
chỉ
số”
(indexing
problem)
trong
số
bội
thu
ngân
sách
của
năm
nay.
Thí
dụ
cụ
thể
nhất
là
cho
ngân
sách
dự
báo
từ
tháng
9-2011
cho
năm
2012
và
mới
được
Quốc
hội
chấp
thuận
cuối
tuần
trước.
Số
thu
ngân
sách
năm
2012
được
dự
báo
là
762.900
tỉ
đồng
(kể
cả
22.400
tỉ
thu
chuyển
nguồn
từ
năm
2011),
số
chi
là
903.100
tỉ
đồng
và
bội
chi
là
140.200
tỉ
đồng
hay
4,8%
của
GDP.
Số
thu
dự
báo
của
năm
tới
đạt
mức
kỷ
lục
là
762.900
tỉ
so
với
dự
báo
thu
năm
2011
chỉ
là
605.000
tỉ
(tăng
26%)
vì
đã
dựa
trên
số
thu
thực
hiện
ước
tính
ở
mức
cao
674.500
tỉ
cho
năm
nay
2011
(dựa
trên
số
thực
tế
558.510
tỉ
đã
thực
hiện
sau
10
tháng
đầu
năm).
Thoạt
nhìn,
các
quan
sát
viên
có
thể
thán
phục
khả
năng
thu
thuế
cao
của
chúng
ta
năm
nay
mặc
cho
nền
kinh
tế
và
doanh
nghiệp
đều
gặp
khó
khăn.
Nhưng
nghĩ
kỹ
đích
thực
đây
chỉ
là
phản
ánh
mức
lạm
phát
cao
của
năm
nay
(18-19%)
hay
của
sự
mất
giá
tiền
đồng
(tỷ
giá
hiện
là
21.000-21.800
so
với
19.500
của
năm
2010),
khiến
các
thứ
thuế
quan
trọng
nhất
là
thuế
xuất
nhập
khẩu
và
thuế
doanh
nghiệp
đều
thu
cao
vì
dựa
trên
nền
tảng
thuế
cao.
Con
số
605.000
tỉ
đồng
dự
thu
cho
ngân
sách
năm
2011
vào
tháng
9
năm
ngoái
đã
dựa
trên
tỷ
lệ
lạm
phát
mục
tiêu
7%
cho
năm
2011
và
tỷ
giá
19.500
của
năm
ngoái.
Còn
cho
năm
nay,
lạm
phát
đã
lên
khá
cao
(trên
20%
trong
vài
tháng
rồi
và
cuối
tháng
12
hy
vọng
sẽ
chậm
lại
ở
mức
18-19%)
và
tỷ
giá
tiền
đồng
đã
vượt
xa
21.000
từ
quí
1
và
nay
trở
lại
mức
đó
vào
quí
4,
nên
số
tổng
thu
thực
hiện
đã
lên
tới
mức
ước
tính
mới
là
762.900
tỉ.
Nói
cách
khác,
nếu
giả
sử
lạm
phát
chỉ
là
7%
và
tỷ
giá
quanh
mức
19.500
cho
năm
2011,
thì
chúng
ta
đã
không
thu
được
674.500
tỉ
cho
ngân
sách!
Chúng
ta
tiếp
tục
dự
báo
mức
thu
cao
ngất
ngưởng
cho
năm
2012
dựa
trên
số
thu
cũng
cao
ngất
thực
hiện
được
năm
nay
(2011)
là
chúng
ta
tiếp
tục
chấp
nhận
một
nền
tảng
thuế
cao
dựa
trên
mức
lạm
phát
cao
hai
con
số
và
mức
mất
giá
cao
cho
tiền
đồng.
Một
kết
luận
quan
trọng
khác
là
do
số
TỔNG
THU
dự
báo
được
bơm
phồng
cho
năm
tới,
chúng
ta
cũng
tự
động
bơm
phồng
số
TỔNG
CHI
cho
năm
tới,
mặc
dù
có
hạn
định
giới
hạn
cho
tỷ
lệ
bội
chi
ngân
sách/GDP
là
4,8%
cho
năm
2012.
Một
nhận
xét
quan
trọng
là
dù
tỷ
lệ
bội
chi
có
được
giới
hạn,
nhưng
nếu
cả
TỔNG
THU
và
TỔNG
CHI
đều
được
bơm
phồng
do
vấn
đề
lạm
phát
(hay
vấn
đề
tính
chỉ
số
-
indexing,
như
nêu
trên)
thì
số
BỘI
CHI
cũng
được
bơm
phồng
theo
cùng
tỷ
lệ.
Và
kết
quả
là
lạm
phát
sẽ
lại
tiếp
tục
lên
cao
trong
năm
tới
và
trung
hạn...
Cơ
chế
giữa
số
bội
chi
tuyệt
đối
cao
và
lượng
cung
tiền
cao
hàng
năm
chính
là
mối
liên
hệ
mật
thiết
giữa
chính
sách
tài
khóa
và
tiền
tệ
gây
ra
lạm
phát
cao
ở
Việt
Nam
từ
nhiều
năm
nay
(hai
thí
dụ
gần
và
rõ
nhất
là
năm
2011
và
2008).
Cơ
chế
này
được
giải
thích
rõ
hơn
dưới
đây,
qua
việc
bơm
phồng
chi
tiêu
công
hàng
năm
bằng
số
thu
“lạc
quan”
và
nhất
là
đầu
tư
công
được
tài
trợ
dễ
dàng
qua
phát
hành
trái
phiếu
chính
phủ.
Lý
luận
trên
còn
nhằm
làm
rõ
hơn
tính
chất
của
khoản
chi
tiêu
đầu
tư
tài
trợ
bởi
phát
hành
trái
phiếu
chính
là
mối
liên
hệ
căn
bản
giữa
chính
sách
tài
khóa
và
tiền
tệ
hàng
năm
đã
gây
ra
lạm
phát
cao
và
bị
“làm
ngơ”
vì
cách
trình
bày
thực
hiện
ngân
sách
hiện
nay:
đây
chính
là
nguồn
tài
trợ
thất
thu
ngân
sách
hàng
năm
bằng
hệ
thống
ngân
hàng,
thoát
khỏi
con
mắt
các
nhà
phân
tích
vĩ
mô.
Để
giải
thích
rõ
hơn,
thử
trở
lại
thí
dụ
của
nửa
đầu
năm
2011,
trái
phiếu
chính
phủ
mặc
dù
với
lãi
suất
thấp
10-12%
vẫn
được
các
ngân
hàng
lớn
tích
cực
mua
vì
họ
có
thể
đem
đến
cửa
sổ
tái
cấp
vốn
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
và
chỉ
trả
mức
lãi
suất
7%
dạo
đó
trong
một
thời
gian
dài.
Nói
một
cách
khác
hơn,
qua
tái
cấp
vốn,
chính
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
tài
trợ
thâm
hụt
ngân
sách
(deficit
financing).
Vì
chi
tiết
này
không
được
thảo
luận
rõ
ràng,
vẫn
còn
có
vài
nghiên
cứu
phát
biểu
“can
đảm”
rằng
chính
sách
tiền
tệ
là
nguyên
nhân
của
lạm
phát
trong
nhiều
năm
qua
và
chính
sách
tài
khóa
không
có
trách
nhiệm
về
lạm
phát.