Tỷ
lệ
vượt
nguồn
1%
của
2008,
12%
của
2009
và
2%
của
2010
được
TCTD
lấy
tiền
ở
đâu,
nếu
không
phải
nhận
từ
NHNN
và/hoặc
vay
trên
thị
trường
liên
ngân
hàng?
Tìm
nguồn
tiền
để
xử
lý
nợ
xấu,
không
nên
để
ngân
hàng
thương
mại
nhà
nước
“sở
hữu
chéo”
các
ngân
hàng
“bệnh
tật”...
Đó
là
những
nội
dung
liên
quan
đến
tái
cơ
cấu
ngân
hàng
được
các
chuyên
gia
tài
chính
đề
cập
khá
sâu
sắc
tại
một
hội
thảo
cuối
tuần
trước,
với
sự
nhấn
mạnh
cần
đẩy
nhanh
tiến
trình
thực
hiện.
Việc
không
thể
đừng!
Lý
do
đầu
tiên
của
việc
cần
đẩy
nhanh
tái
cơ
cấu
ngân
hàng,
theo
lãnh
đạo
một
ngân
hàng
thương
mại
Nhà
nước
thì
tính
đến
tháng
6/2011,
hệ
thống
tổ
chức
tín
dụng
Việt
Nam
đạt
con
số
123
đơn
vị.
Do
tổ
chức
tín
dụng
liên
tục
mở
rộng
quy
mô
mạng
lưới
chi
nhánh,
phòng
giao
dịch
và
cùng
đó
là
quá
trình
thực
hiện
quy
định
tăng
vốn
của
Chính
phủ,
đến
cuối
tháng
9/2011,
tổng
vốn
điều
lệ
của
các
ngân
hàng
thương
mại
đạt
336.300
tỷ
đồng,
gấp
2,26
lần
so
với
mức
cuối
2008,
tương
đương
16,8
tỷ
USD.
Hai
yếu
tố
trên
đã
tạo
nên
tổng
tài
sản
của
hệ
thống
tổ
chức
tín
dụng
ở
mức
gấp
hai
lần
so
với
cuối
năm
2008.
Lý
do
thứ
hai
là
nhiều
năm
gần
đây,
hệ
thống
ngân
hàng
luôn
nằm
trong
tình
trạng
mất
cân
đối
giữa
huy
động
và
cho
vay,
đe
dọa
an
toàn
thanh
khoản.
Đơn
cử,
đến
cuối
tháng
7/2011,
tổng
huy
động
vốn
đạt
2.585
nghìn
tỷ
đồng,
tăng
86%
so
với
cuối
2008,
trong
đó,
tốc
độ
huy
động
vốn
năm
2009:
29,88%;
2010
tăng
36,24%;
còn
7
tháng
đầu
2011
mức
tăng
chậm
lại
còn
5,46%.
Tuy
nhiên,
ở
chiều
cấp
tín
dụng
lại
còn
tăng
mạnh
hơn
cả
về
con
số
tuyệt
đối
và
tương
đối.
Theo
đó,
đến
cuối
tháng
7/2011,
tổng
dư
nợ
tín
dụng
đạt
2.650
nghìn
tỷ
đồng,
tăng
97%
so
với
cuối
2008.
Quá
trình
tăng
trưởng
tín
dụng
nóng
được
dồn
tích
từ
các
năm
trước
đó
như:
năm
2009,
tín
dụng
tăng
39,57%;
2010
tăng
32,43%.
Những
năm
này
đứng
trước
bối
cảnh
nền
kinh
tế
bị
suy
giảm
do
tác
động
của
khủng
hoảng
kinh
tế
thế
giới,
Ngân
hàng
Nhà
nước
phải
nới
lỏng
chính
sách
tiền
tệ
để
vượt
qua
suy
giảm,
trong
đó
có
gói
hỗ
trợ
lãi
suất
4%
khoản
vay
VND
có
số
dư
đến
31/12/2009
lên
tới
385.824
tỷ
đồng.
Mãi
đến
đầu
năm
2011
đến
nay,
do
lạm
phát
tăng
cao,
Ngân
hàng
Nhà
nước
buộc
phải
thực
thi
chính
sách
tiền
tệ
thắt
chặt,
kiểm
soát
lượng
tiền
cung
ứng,
tăng
mạnh
lãi
suất
điều
hành,
khống
chế
chỉ
tiêu
tín
dụng
không
quá
20%,
hạn
chế
dư
nợ
phi
sản
xuất
nên
mức
tăng
tín
dụng
7
tháng
đầu
năm
chỉ
khoảng
7,06%,
ước
cả
năm
chỉ
tăng
12%.
Lý
do
thứ
ba,
tình
hình
cơ
cấu
tài
sản
“Có”
của
các
tổ
chức
tín
dụng
hết
sức
thiếu
bền
vững
khi
hoạt
động
cấp
tín
dụng
vẫn
là
mảng
doanh
thu
chủ
yếu,
còn
các
mảng
khác
đều
bị
xem
nhẹ,
dẫn
đến
một
số
đơn
vị
lâm
vào
cảnh
“ăn
đong”
ở
nhiều
thời
điểm
trong
năm.
Cụ
thể:
tài
sản
tín
dụng
chiếm
tỷ
trọng
tới
56,1%;
đầu
tư
trên
thị
trường
liên
ngân
hàng
chiếm
18,6%;
đầu
tư
vào
tín
phiếu
và
các
chứng
khoán
của
Chính
phủ
chỉ
5,2%
và
chủ
yếu
tập
trung
tại
các
ngân
hàng
thương
mại
nhà
nước
và
một
số
ít
ngân
hàng
thương
mại
cổ
phần
lớn;
đầu
tư
giấy
tờ
có
giá
khác:
3,9%;
duy
trì
tài
sản
có
ở
nước
ngoài
3,4%;
tiền
gửi
tại
Ngân
hàng
Nhà
nước:
1,7%;
tiền
mặt
tại
quỹ:
1,7%;
tài
sản
có
khác
chiếm
9,4%.
Lý
do
thứ
tư,
do
hệ
thống
không
đồng
đều
về
quy
mô
của
từng
đơn
vị
lại
cùng
hoạt
động
chung
một
môi
trường,
cộng
với
sự
khác
biệt
về
khả
năng
quản
trị,
năng
lực
tài
chính
nên
không
ít
đơn
vị
luôn
dựa
dẫm
vào
Ngân
hàng
Nhà
nước,
đẩy
“người
cho
vay
cuối
cùng”
vào
tình
thế
không
bao
giờ…
ngớt
việc!
Nguyên
Thống
đốc
Nguyễn
Văn
Giàu
có
lần
nhận
xét:
“Từ
2007
đến
2011,
thanh
khoản
hệ
thống
ngân
hàng
chưa
bao
giờ
có
một
ngày
bình
yên”.
Sự
căng
thẳng
thanh
khoản
có
nhiều
yếu
tố
nhưng
nổi
lên
trong
đó
là
hệ
số
sử
dụng
vốn
luôn
xấp
xỉ
bằng
100%
hoặc
vượt
quá.
Nguyên
một
lãnh
đạo
cấp
vụ
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
đưa
ra
tỷ
lệ
cấp
tín
dụng
VND/huy
động
vốn
VND
như
sau:
năm
2008:
101%;
2009:
112%;
2010:
102%;
cuối
tháng
7/2011:
98,6%.
Một
câu
hỏi
đặt
ra,
tỷ
lệ
vượt
nguồn
1%
của
2008,
12%
của
2009
và
2%
của
2010
được
tổ
chức
tín
dụng
lấy
tiền
ở
đâu
để
cấp
tín
dụng,
nếu
không
phải
nhận
từ
Ngân
hàng
Nhà
nước
và/hoặc
vay
trên
thị
trường
liên
ngân
hàng?
Từ
thực
tế
đó,
ông
Kiều
Hữu
Thiện,
Phó
giám
đốc
Học
viện
Ngân
hàng
nhận
xét:
“Vấn
đề
tái
cấu
trúc
ngân
hàng
là
một
nhiệm
vụ
trọng
tâm
của
ngành
ngân
hàng
hiện
nay,
bởi
hệ
thống
này
hiện
đang
tồn
tại
nhiều
bất
cập
trong
hoạt
động;
chưa
làm
tốt
vai
trò
của
một
trung
gian
tài
chính
trong
nền
kinh
tế,
khiến
dòng
vốn
bị
ách
tắc,
chi
phí
vốn
quá
cao”.
Cần
bao
nhiêu
tiền
để
tái
cơ
cấu?
Theo
ông
Kiều
Hữu
Thiện,
mục
tiêu
tổng
thể
của
tái
cơ
cấu
ngành
ngân
hàng
là
hướng
tới
một
hệ
thống
minh
bạch,
phát
triển
bền
vững,
đảm
bảo
phân
bổ
tốt
nguồn
lực
từ
tiết
kiệm
đến
đầu
tư.
Nhưng
một
trọng
tâm
không
thể
không
chú
trọng
là
phát
triển
hệ
thống
tài
chính
khu
vực
nông
thôn,
hiện
đang
bỏ
ngỏ.
Ông
Thiện
cho
rằng,
rất
nhiều
năm
qua,
nhu
cầu
vốn
ở
khu
vực
nông
thôn
rất
lớn
nhưng
chỉ
có
hiện
diện
của
Agribank,
Ngân
hàng
Chính
sách
xã
hội
và
vai
trò
mờ
nhạt
của
hệ
thống
quỹ
tín
dụng
nhân
dân
cơ
sở
trong
khi
thiếu
vắng
các
định
chế
tài
chính
lớn
khác.
Do
thị
trường
tài
chính
nông
thôn
còn
lạc
hậu
nên
đã
tạo
điều
kiện
để
“tín
dụng
đen”
phát
triển
ồ
ạt,
gây
khó
khăn
cho
quản
lý
và
hậu
quả
khó
lường
về
mặt
xã
hội.
Từ
thực
tế
này,
ông
Thiện
đề
xuất,
khi
tái
cấu
trúc
ngân
hàng,
cần
có
cơ
chế
hỗ
trợ
quỹ
tín
dụng
nhân
dân
hoạt
động
thông
qua
cơ
chế
miễn
giảm
thuế
và
vốn.
Ví
dụ,
miễn
giảm
thuế
vài
năm
đầu
tiên
khi
thành
lập
cho
các
quỹ
này
và/hoặc
yêu
cầu
các
ngân
hàng
thương
mại
khác
ít
hoạt
động
ở
khu
vực
nông
thôn
phải
dành
một
tỷ
lệ
tín
dụng
với
lãi
suất
hợp
lý
để
các
quỹ
này
cho
vay
ra.
Tiếp
theo,
liên
quan
đến
vấn
đề
xử
lý
tài
sản
xấu
trước
khi
tái
cơ
cấu,
trong
bài
tham
luận
của
mình,
ông
Lê
Xuân
Nghĩa,
Phó
chủ
tịch
Ủy
ban
Giám
sát
tài
chính,
tiền
tệ
Quốc
gia
cho
biết:
“Chất
lượng
tài
sản
của
hệ
thống
ngân
hàng
xấu
đi
do
tăng
trưởng
tín
dụng
nóng,
nợ
xấu
ngân
hàng
tăng
nhanh,
đạt
8,5%,
cao
gấp
3
lần
mức
bình
quân
năm
2010”.
Đặt
tỷ
lệ
nợ
xấu
8,5%
bên
cạnh
quy
mô
tổng
dư
nợ
tín
dụng
tới
2.650
nghìn
tỷ
đồng,
sẽ
thấy
con
số
nợ
xấu
hiện
đang
rất
lớn
và
muốn
tái
cơ
cấu
thì
phải
có
nguồn
tiền
để
xử
lý
con
số
này.
Ông
Nguyễn
Mạnh
Dũng,
Phó
tổng
giám
đốc
Bảo
hiểm
Tiền
gửi
Việt
Nam
nêu
ra
hai
cách
dùng
tiền
để
tái
cơ
cấu.
Một
là,
dùng
tiền
ngân
sách
thông
qua
Ngân
hàng
Nhà
nước
hoặc
Bộ
Tài
chính.
Theo
ông,
giai
đoạn
1999
-
2007,
có
17
ngân
hàng
cổ
phần
bị
sáp
nhập
và
giải
thể.
Để
xử
lý
17
đơn
vị
này,
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
chi
1.500
tỷ
đồng
từ
nguồn
tiền
cung
ứng
đóng
cửa
một
số
ngân
hàng
và
tái
cấp
vốn
cho
những
ngân
hàng
thực
hiện
cơ
cấu
lại.
Nhưng
ở
lần
này,
số
tiền
cần
để
tái
cơ
cấu
sẽ
lớn
hơn
rất
nhiều
và
nếu
dùng
tiền
ngân
sách
chắc
chắn
không
khả
thi
vì
ngân
sách
đã
thâm
thủng
quá
lớn;
còn
nếu
dùng
tiền
cung
ứng
cũng
không
ổn
do
áp
lực
lạm
phát
đang
rất
cao.
Bởi
thế,
nên
sử
dụng
cách
thứ
hai
là
tái
cơ
cấu
theo
nguyên
tắc
thị
trường
như
một
số
nước
Mỹ,
Nhật,
Hàn,
Canada,
Đài
Loan…
từng
làm.
Ông
Dũng
đưa
ra
dẫn
chứng,
trong
cuộc
khủng
hoảng
châu
Á
1997
tại
khu
vực
châu
Á
Thái
Bình
Dương
và
Hàn
Quốc,
trong
vòng
4
năm
(1998
-
2002),
các
quốc
gia
ở
khu
vực
này
tiến
hành
cơ
cấu
hệ
thống
tài
chính,
chấp
nhận
cho
loại
bỏ,
sáp
nhập,
hợp
nhất
838
tổ
chức
tài
chính
“có
vấn
đề”
với
tổng
mức
chi
tới
126
tỷ
USD
mặc
dù
chỉ
bỏ
tiền
túi
ra
11
tỷ
USD.
Một
câu
hỏi
khác
được
đặt
ra:
sau
tái
cơ
cấu,
hệ
thống
ngân
hàng
nên
gút
lại
bao
nhiêu
đơn
vị?
Theo
ông
Dũng,
số
lượng
ngân
hàng
chỉ
nên
dừng
ở
con
số
15
và
chia
làm
3
thứ
bậc:
4
ngân
hàng
đứng
đầu
với
mức
vốn
quy
định
là
3
tỷ
USD,
khi
tái
cơ
cấu
xong
bắt
buộc
phải
có
tối
thiểu
2
tỷ
USD;
6
ngân
hàng
hạng
trung
bình
có
mức
vốn
tối
thiểu
1
tỷ
USD
và
5
ngân
hàng
còn
lại
có
mức
vốn
tối
thiểu
500
triệu
USD.
Nếu
cộng
dồn
thì
tổng
mức
vốn
điều
lệ
của
các
ngân
hàng
khoảng
16,5
tỷ
USD,
xấp
xỉ
với
con
số
hiện
nay.
Đặc
biệt,
theo
ông
Thiện,
trong
một
số
trường
hợp,
nhà
nước
có
thể
mua
cổ
phần
để
nắm
quyền
kiểm
soát,
không
nên
để
xảy
ra
tình
trạng
“sở
hữu
chéo”,
tức
là
các
ngân
hàng
thương
mại
nhà
nước
tiếp
tục
nắm
cổ
phần
tại
các
ngân
hàng
“bệnh
tật”
cần
cơ
cấu,
điều
đó
dễ
bị
che
khuất
bản
chất
bên
trong.
*
Tính
đến
cuối
tháng
10/2011,
hệ
thống
tổ
chức
tín
dụng
Việt
Nam
có
5
ngân
hàng
thương
mại
Nhà
nước
(đã
cổ
phần
hóa
Vietcombank
và
VietinBank);
37
ngân
hàng
thương
mại
cổ
phần,
trong
đó
có
13
ngân
hàng
thương
mại
chuyển
đổi
từ
mô
hình
nông
thôn
lên
thành
thị;
40
chi
nhánh
ngân
hàng
nước
ngoài;
5
ngân
hàng
100%
vốn
nước
ngoài,
5
ngân
hàng
liên
doanh;
18
công
ty
tài
chính;
12
công
ty
cho
thuê
tài
chính;
1
quỹ
tín
dụng
nhân
dân
Trung
ương.