Việc
phân
bổ
nguồn
lực
trong
nền
kinh
tế
100
tỉ
USD
của
Việt
Nam
đang
bộc
lộ
nhiều
vấn
đề.
Theo
PGS.
TS.
Trần
Đình
Thiên,
ngay
từ
lúc
này
Việt
Nam
cần
phải
thay
đổi.
Nền
kinh
tế
Việt
Nam
với
tổng
sản
phẩm
quốc
nội
(GDP)
100
tỉ
USD
gồm
100
cảng
biển,
hơn
100
tổ
chức
tín
dụng,
22
sân
bay,
260
khu
công
nghiệp...
Vậy
ai
tạo
ra
GDP?”,
Phó
Giáo
sư
Tiến
sĩ
Trần
Đình
Thiên,
Viện
trưởng
Viện
Kinh
tế
Việt
Nam,
đặt
vấn
đề
trong
buổi
hội
thảo
“Cập
nhật
tình
hình
kinh
tế
toàn
cầu
và
kinh
tế
vĩ
mô
Việt
Nam”,
do
Ngân
hàng
ANZ
Việt
Nam
tổ
chức
ngày
16.11.
“Mỗi
địa
phương
như
một
vương
quốc
độc
lập”
Ông
Thiên
cho
biết,
nền
kinh
tế
với
GDP
100
tỉ
USD
của
Việt
Nam
có
100
cảng
biển,
trong
đó
có
20
cảng
quốc
tế;
hơn
100
tổ
chức
tín
dụng,
hàng
trăm
công
ty
tài
chính
và
chứng
khoán;
22
sân
bay,
trong
đó
có
8
sân
bay
quốc
tế
(trong
khi
Nhật
có
4
sân
bay
quốc
tế).
Ngoài
ra
còn
có
18
khu
kinh
tế
ven
biển;
27
khu
kinh
tế
cửa
khẩu;
260
khu
công
nghiệp,
650
cụm
công
nghiệp.
Chỉ
tính
trong
10
năm
(2001-2010),
Việt
Nam
có
thêm
233
trường
đại
học
và
cao
đẳng,
tức
mỗi
tháng
có
thêm
2
trường.
Tính
trung
bình,
nền
kinh
tế
có
thêm
1
khu
đô
thị
mới
trong
1
tháng.
Thực
tế,
số
lượng
các
sân
bay,
cảng
biển,
khu
công
nghiệp
và
ngân
hàng
thương
mại
không
phải
là
vấn
đề
đáng
ngại
đối
với
một
nền
kinh
tế
nếu
các
công
trình
này
thực
sự
cần
thiết,
mang
lại
hiệu
quả
kinh
tế
cao
và
đóng
góp
cho
tăng
trưởng
của
nền
kinh
tế
đó.
Tuy
nhiên,
theo
phân
tích
của
ông
Thiên,
quy
mô
nền
kinh
tế
Việt
Nam
chỉ
có
100
tỉ
USD
nhưng
có
đến
100
cảng
biển.
Nghĩa
là,
mỗi
cảng
chỉ
phục
vụ
sản
xuất
trung
bình
1
tỉ
USD/năm
cho
nền
kinh
tế
mà
thôi.
Tương
tự,
nếu
100
ngân
hàng
thương
mại
trong
nền
kinh
tế
có
GDP
100
tỉ
USD
có
nghĩa
bình
quân
mỗi
ngân
hàng
chỉ
phục
vụ
sản
xuất
ra
1
tỉ
USD/năm
cho
nền
kinh
tế.
TS.
Vũ
Tuấn
Anh,
Viện
Kinh
tế
Việt
Nam,
từng
nói:
“Mỗi
địa
phương
như
một
vương
quốc
độc
lập.
Tỉnh
nào
cũng
có
sân
bay,
cảng
biển,
khu
công
nghiệp,
sân
golf,
khu
đô
thị
như
một
đại
công
trường
dang
dở”.
Ngay
giữa
các
khu
công
nghiệp,
cụm
công
nghiệp
và
khu
kinh
tế
ven
biển
của
Việt
Nam
cũng
diễn
ra
sự
cạnh
tranh
rất
gay
gắt
nhằm
thu
hút
đầu
tư.
Theo
ông
Thiên,
Nhà
nước
cần
có
biện
pháp
kiểm
soát
và
kiểm
tra
chặt
bởi
nguồn
lực
có
hạn.
Sự
bất
cập
trong
lĩnh
vực
đầu
tư
công
gây
lãng
phí
về
nguồn
lực
quốc
gia,
đặc
biệt
tại
những
địa
phương
thuộc
diện
nghèo
nhất
nước
như
Hà
Giang.
Số
liệu
từ
Viện
Chiến
lược
Phát
triển,
Bộ
Kế
hoạch
và
Đầu
tư
cho
biết,
từ
năm
1998,
Hà
Giang
chủ
trương
xây
dựng
hạ
tầng.
Tỉnh
này
đã
đầu
tư
thực
hiện
1.901
công
trình
xây
dựng
cơ
bản
theo
hình
thức
chỉ
định
thầu,
với
tổng
vốn
dự
toán
được
duyệt
3.308
tỉ
đồng
tính
đến
năm
2004.
Tuy
nhiên,
vẫn
có
hàng
trăm
công
trình
chưa
hoàn
thành
và
sau
4
năm
Hà
Giang
còn
nợ
vốn
xây
dựng
cơ
bản
1.800
tỉ
đồng.
Ông
Thiên
đặt
vấn
đề:
“Quy
mô
nền
kinh
tế
có
khiêm
tốn
ở
mức
100
tỉ
USD
hay
không,
nếu
các
công
trình
bị
chậm
tiến
độ,
gây
thất
thoát
trên
cả
nước
được
quản
lý
bởi
1
bộ
máy
hậu
kiểm
sau
cấp
phép
nghiêm
ngặt
từ
trên
xuống
dưới?”
Quy
hoạch
lại
hệ
thống
phân
bổ
nguồn
lực
Cần
nói
thêm
rằng,
so
với
các
quốc
gia
công
nghiệp
mới
(NICs)
ở
châu
Á
như
Đài
Loan
và
Hàn
Quốc
sau
30
năm
phát
triển
đầu
tiên,
phát
triển
kinh
tế
của
Việt
Nam
tương
đối
chậm.
Theo
số
liệu
của
Tổng
cục
Thống
kê,
tính
từ
năm
2000
cho
tới
nay,
đầu
tư
toàn
xã
hội
chiếm
khoảng
30-40%
GDP/năm
nhưng
hiệu
quả
đầu
tư
không
cao.
Thống
kê
của
ông
Thiên
cho
thấy,
trong
3
năm
gần
nhất
từ
2008-2010,
hệ
số
ICOR
của
Việt
Nam
luôn
rất
cao,
đồng
nghĩa
với
hiệu
quả
đầu
tư
thấp
(ICOR
là
hệ
số
đo
lường
để
có
được
1
đồng
vốn
tăng
trưởng
GDP
cần
bao
nhiêu
đồng
vốn
đầu
tư,
ICOR
càng
thấp
hiệu
quả
đầu
tư
càng
cao).
Năm
2009,
tốc
độ
tăng
GDP
là
5,3%;
đầu
tư/GDP
tăng
38,13%
và
ICOR
là
7,19.
Đến
2010,
GDP
tăng
trưởng
6,78%
trong
khi
đầu
tư/GDP
tăng
41,91%
và
ICOR
6,18.
ICOR
của
Việt
Nam
cao
như
vậy
chứng
tỏ
điểm
yếu
của
nền
kinh
tế
là
tăng
trưởng
nóng
dựa
vào
vốn
đầu
tư
nhưng
kém
chất
lượng.
Theo
ông
Thiên,
muốn
chống
lạm
phát,
ổn
định
vĩ
mô
và
tăng
trưởng
lâu
dài
thì
ngay
từ
lúc
này
Việt
Nam
phải
thay
đổi
hệ
thống
phân
bổ
nguồn
lực.
Ông
Thiên
cho
rằng,
không
thể
để
tái
diễn
tình
trạng
chỉ
một
tỉnh
mà
có
thời
điểm
có
tới
13
dự
án
xây
sân
golf
được
cấp
phép.
Hay
tổng
số
cảng
biển
đã
hoạt
động,
đang
xây
dựng
và
chuẩn
bị
đầu
tư
tại
Bà
Rịa
-
Vũng
Tàu
là
57
cảng.
Nếu
cả
57
cảng
này
đi
vào
hoạt
động,
Bà
Rịa
-
Vũng
Tàu
tìm
đâu
ra
nguồn
lực
dành
cho
các
lĩnh
vực
khác?
Trong
khi
đó,
có
cảng
chỉ
hoạt
động
20%
công
suất.
Việc
dự
báo
nhu
cầu
vận
chuyển
hàng
hóa
cũng
cần
xem
lại,
khi
17
cảng
biển
đang
hoạt
động
tại
Vũng
Tàu
chỉ
có
lượng
hàng
bốc
xếp
là
13-14
triệu
tấn/năm,
nhưng
lại
dự
báo
tới
53
triệu
tấn
hàng
trong
năm
2010.
Theo
Bộ
Kế
hoạch
và
Đầu
tư,
để
đầu
tư
vào
các
dự
án
xây
dựng
hạ
tầng
trên
cả
nước
như
cảng
biển,
sân
bay,
khu
kinh
tế
biển,
đường
cao
tốc...
ngân
sách
Nhà
nước
phải
mất
15
tỉ
USD/năm
từ
nay
đến
năm
2020.
Vì
lẽ
đó,
tái
cơ
cấu
nền
kinh
tế
chính
là
thay
đổi
hệ
thống
phân
bổ
nguồn
lực
quốc
gia.
Trong
ngắn
hạn,
theo
ông
Thiên,
phải
hạ
lạm
phát
xuống
thấp
hơn
7%
vào
năm
2012.
Quan
điểm
này
được
ông
Paul
Gruenwald,
Kinh
tế
trưởng
khu
vực
châu
Á
-
Thái
Bình
Dương
của
Ngân
hàng
ANZ,
ủng
hộ.
Ông
cho
rằng,
Việt
Nam
cần
kéo
lạm
phát
xuống
mức
1
con
số
vào
năm
sau
và
coi
đây
là
mục
tiêu
lớn
nhất.
Nới
lỏng
tiền
tệ
và
hạ
lãi
suất
chỉ
có
thể
thực
hiện
sau
khi
mục
tiêu
giảm
lạm
phát
đã
hoàn
thành.
Trong
dài
hạn,
ông
Thiên
cho
rằng
Chính
phủ
cần
quy
hoạch
lại
chiến
lược
quốc
gia,
trong
đó
mục
tiêu
ưu
tiên
là
cần
thu
hẹp
đầu
tư
công
nhằm
đảm
bảo
tính
trọng
điểm,
đột
phá
và
tránh
dàn
trải.
Chẳng
hạn
chỉ
tập
trung
đầu
tư
cho
2-3
khu
kinh
tế
tự
do
thay
vì
45
khu
kinh
tế
ven
biển
và
cửa
khẩu
như
hiện
nay.