Nguyên
nhân
thực
sự
của
khủng
hoảng
nợ
châu
Âu
Thứ
năm
-
17/11/2011
17:43
Trong
mắt
người
Đức,
cuộc
khủng
hoảng
bắt
nguồn
từ
việc
chính
phủ
các
nước
thuộc
khu
vực
đồng
tiền
chung
châu
Âu
tiêu
xài
hoang
phí.
Mọi
chuyện
bắt
đầu
với
Hy
Lạp
khi
nước
này
nói
dối
về
thực
trạng
tài
chính
và
chi
tiêu
quá
khả
năng
của
mình.
Cũng
không
cần
phải
bàn
cãi
thêm
về
việc
Hy
Lạp
hay
một
số
nền
kinh
tế
đang
gặp
rắc
rối
khác
tại
châu
Âu
bao
gồm
Bồ
Đào
Nha,
Ireland,
Tây
Ban
Nha
hay
Italy
phải
trả
giá
đắt.
Tuy
nhiên
chính
phủ
nhóm
nền
kinh
tế
còn
lại
thực
ra
không
phung
phí
tiền
bạc.
Trước
cuộc
khủng
hoảng,
chính
phủ
Ireland
và
Tây
Ban
Nha
đều
có
thặng
dư
ngân
sách.
Cả
hai
nước
đều
giữ
được
mức
thâm
hụt
ngân
sách
và
nợ
theo
đúng
quy
định
về
thỏa
ước
về
ổn
định
và
tăng
trưởng.
Đức
thậm
chí
còn
không
làm
được
điều
này
trong
4
năm
từ
năm
2003
(và
chẳng
chịu
hình
phạt
nào).
Italy
cũng
không
rơi
vào
trường
hợp
xấu.
Nợ
tại
những
nước
này
trở
thành
gánh
nặng
không
phải
bởi
sự
hoang
phí
của
chính
phủ
mà
bởi
mỗi
nước
đều
hưởng
một
thập
kỷ
lãi
suất
thấp
và
sau
đó
chịu
tác
động
nghiêm
trọng
bởi
khủng
hoảng
tài
chính.
Tín
dụng
dễ
dãi,
các
hộ
gia
đình
và
công
ty
trong
lĩnh
vực
tài
chính
mạnh
tay
vay
nợ.
Hoạt
động
tín
dụng
liên
biên
giới
phát
triển
mạnh.
Trong
cuộc
khủng
hoảng,
tình
trạng
thất
nghiệp
trở
nên
tồi
tệ
hơn,
chi
phí
phúc
lợi
xã
hội
tăng
cao.
Chính
phủ
một
số
nước
như
Ireland
hay
Tây
Ban
Nha
cần
phải
tìm
được
nguồn
tiền
để
vực
dậy
các
ngân
hàng.
Khi
nguồn
thu
thuế
hạn
chế,
chi
phí
đè
nặng
lên
nhà
nước.
Mức
chi
phí
này
tăng
cao
đặc
biệt
tại
những
nước
từng
chứng
kiến
bong
bóng
bất
động
sản
bùng
nổ.
Cùng
lúc
đó,
lãi
suất
tăng
mạnh.
Trước
khủng
hoảng,
nhà
đầu
tư
cho
rằng
sẽ
chẳng
có
chính
phủ
nào
thuộc
khu
vực
đồng
tiền
chung
châu
Âu
vỡ
nợ.
Theo
giáo
sư
Peter
Boone
và
Simon
Johnson
thuộc
viện
Peterson,
chính
phủ
Đức
đã
phát
đi
tín
hiệu
rằng
khả
năng
vỡ
nợ
hoàn
toàn
có
thể
xảy
ra,
nhà
đầu
tư
sẽ
phải
chịu
thiệt,
họ
đưa
ra
đòi
hỏi
chính
đáng
thế
nhưng
lựa
chọn
này
thật
quá
khó
để
chấp
nhận
trong
bối
cảnh
khủng
hoảng.
Một
số
nhà
đầu
tư
đòi
hỏi
họ
phải
được
đền
đáp
xứng
đáng
cho
rủi
ro
cao,
số
khác
khi
thấy
rủi
ro
quá
lớn
lập
tức
bỏ
đi.
Tâm
lý
đó
lập
tức
gây
ra
vòng
xoáy
sụt
giảm
của
giá
trái
phiếu,
làm
yếu
các
ngân
hàng
và
làm
chậm
đà
tăng
trưởng
kinh
tế.
Tại
những
nước
thuộc
khu
vực
đồng
tiền
chung
châu
Âu
mà
chính
phủ
của
họ
không
tiêu
xài
hoang
phí,
họ
thường
phải
đối
đầu
với
tình
trạng
thâm
hụt
tài
khoản
vãng
lai
cao.
Lãi
suất
thấp,
chi
tiêu
nội
địa
và
lạm
phát
lương,
giá
hàng
hóa
tăng
mạnh,
hàng
xuất
khẩu
trở
nên
đắt
đỏ
và
hàng
nhập
khẩu
rẻ.
Kinh
tế
Đức
có
nhiều
điểm
đáng
nể,
thế
nhưng
kinh
tế
Đức
thực
tế
cũng
thiếu
cân
bằng
như
nhiều
nước
khác
trong
khu
vực
đồng
tiền
chung.
Người
Đức
dường
như
quên
rằng
trong
dài
hạn,
tiền
thu
được
từ
xuất
khẩu
dành
để
chi
cho
nhập
khẩu.
Nay
họ
lẽ
ra
nên
tiếc
nuối
vì
đã
đầu
tư
tiền
tiết
kiệm
vào
thế
chấp
dưới
chuẩn
ở
Mỹ
và
nợ
chính
phủ
Hy
Lạp.
Để
chấp
dứt
cuộc
khủng
hoảng,
chính
phủ
các
nước
thuộc
khu
vực
đồng
tiền
chung
châu
Âu
đã
đồng
ý
giảm
một
nửa
nợ
cho
Hy
Lạp,
tái
cấp
vốn
các
ngân
hàng
châu
Âu
và
tăng
cường
quỹ
giải
cứu
để
bảo
vệ
chính
phủ
nhiều
nước
thuộc
khu
vực
đồng
tiền
chung
châu
Âu.
Kế
hoạch
này
đầy
tham
vọng
thế
nhưng
Hy
Lạp
có
thể
cần
thêm
sự
hỗ
trợ
và
“bức
tường
lửa”
mà
châu
Âu
dựng
lên
không
đủ
mạnh
để
ngăn
khả
năng
khủng
hoảng
lan
rộng.
Ngay
cả
khi
khủng
hoảng
đã
dịu
đi,
việc
khôi
phục
lại
các
nền
kinh
tế
châu
Âu
cũng
sẽ
mất
nhiều
năm.
Chính
phủ
các
nước
đang
gặp
khó
khăn
cần
phải
kiểm
soát
tốt
thâm
hụt
ngân
sách
và
tăng
cường
được
khả
năng
cạnh
tranh.
Người
Đức
khẳng
định
trách
nhiệm
thuộc
về
người
đi
vay
tiền,
họ
phải
thực
hiện
tốt
quy
tắc
về
ngân
sách.
Chiến
lược
này
nhiều
khi
chỉ
khiến
mọi
chuyện
tồi
tệ
hơn.
Bằng
cách
vận
động
áp
dụng
chiến
lược
thắt
chặt
ngân
sách
ngay
lập
tức,
suy
thoái
kinh
tế
tại
nhóm
nước
đang
gặp
rắc
rối
ngày
một
tồi
tệ.
Không
phải
nước
nào
cũng
có
thể
tiết
kiệm
để
trở
nên
giàu
có.
Theo
Keynes,
khi
nước
này
tiết
kiệm,
nước
khác
phải
chi
tiêu.
Tại
châu
Âu,
đối
tượng
chi
tiêu
nên
phải
là
người
Đức
và
người
Hà
Lan
vốn
duy
trì
thâm
hụt
ngân
sách
trong
thời
kỳ
kinh
tế
tăng
trưởng
mạnh.
Tuy
nhiên
nước
chủ
nợ
thường
chẳng
muốn
chấp
nhận
rằng
họ
phải
tham
gia
giải
quyết
vấn
đề.
Chính
phủ
các
nước
chủ
nợ,
đặc
biệt
Đức,
đang
tiến
thoái
lưỡng
nan.
Họ
cần
phải
cứu
chính
phủ
các
nước
đang
khó
khăn
để
ngăn
khủng
hoảng
lan
rộng.
Mặt
khác,
họ
vẫn
muốn
gây
áp
lực
để
buộc
thực
thi
các
biện
pháp
cải
tổ
và
buộc
chính
phủ
nhiều
nước
phải
tuân
thủ
nguyên
tắc
để
người
đóng
thuế
Đức
không
phải
chi
trả
tiền
cho
nhiều
nước
khác
tiêu
xài
thỏa
thích.
Cho
đến
nay,
người
Đức
đang
cố
gắng
làm
hai
việc
một
lúc
và
thực
tế
mới
chỉ
“thành
công”
trong
việc
đẩy
mọi
chuyện
theo
chiều
hướng
xấu
đi.
Đình
Hảo
Nguồn
tin:
TTXVN