Đã
đến
lúc
cải
cách
bộ
môn
kinh
tế
học
vi
mô
theo
hướng
đơn
giản,
dễ
hiểu
và
mang
nhiều
tính
thực
tế
hơn.
Suốt
một
thế
kỷ
vừa
qua,
các
trường
đại
học
hàng
đầu
thế
giới
đã
giảng
dạy
kinh
tế
học
vi
mô
thông
qua
lăng
kính
của
mô
hình
Arrow-Debreu
về
trạng
thái
cân
bằng
tương
đối.
Với
cái
nhìn
sâu
hơn
về
học
thuyết
“Nguồn
gốc
của
cải
của
các
quốc
gia”
được
đưa
ra
bởi
Adam
Smith,
mô
hình
này
là
hiện
thân
của
vẻ
đẹp,
sự
đơn
giản
và
tính
thiếu
thực
tế
của
hai
định
lý
cơ
bản
về
trạng
thái
cân
bằng
tương
đối.
Học
thuyết
này
cũng
đối
lập
với
sự
hỗn
độn
và
phức
tạp
mà
các
nhà
kinh
tế
học
đã
tạo
ra
trong
nỗ
lực
tìm
ra
cách
tốt
hơn
để
minh
họa
các
diễn
biến
của
kinh
tế
thế
giới.
Nói
cách
khác,
trong
khi
các
nhà
nghiên
cứu
nỗ
lực
để
hiểu
thấu
những
trường
hợp
phức
tạp
của
thế
giới
thực,
các
sinh
viên
kinh
tế
được
tiếp
cận
với
những
giả
thuyết
không
hề
tồn
tại
trên
thực
tế.
Phương
pháp
giáo
dục
này
xuất
phát
từ
ý
tưởng
cho
rằng
đóng
khung
những
suy
nghĩ
về
các
vấn
đề
kinh
tế
sẽ
tỏ
ra
hữu
ích
đối
với
các
sinh
viên
kinh
tế
hơn
so
với
các
mô
hình.
Tuy
nhiên,
điều
này
lại
trở
thành
gánh
nặng
với
một
bộ
phận
khác:
đi
chệch
khỏi
mô
hình
Arrow-Debreu,
mọi
thứ
trở
nên
quá
thực
tế
và
phức
tạp
và
do
đó
không
còn
phù
hợp
với
các
lớp
học.
Những
suy
nghĩ
thực
tế
về
kinh
tế
vi
mô
chỉ
dành
cho
các
chuyên
gia.
Chắc
chắn
là,
các
mô
hình
cơ
bản
(ví
dụ
như
học
thuyết
về
độc
quyền,
hàng
hóa
công
cộng
hoặc
đơn
giản
là
học
thuyết
thông
tin
bất
cân
xứng)
có
giá
trị
về
mặt
giáo
dục.
Tuy
nhiên,
có
rất
ít
nhà
nghiên
cứu
làm
việc
với
chúng.
Những
lý
thuyết
được
sử
dụng
phổ
biến
khi
nghiên
cứu
về
kinh
tế
vi
mô
bao
gồm
phân
tích
rủi
ro,
thị
trường
hai
bên,
tín
hiệu
thị
trường,
cấu
trúc
vi
mô
của
thị
trường
tài
chính,
đánh
thuế
tối
ưu
…
Những
lý
thuyết
này
phức
tạp
hơn
nhiều
và
phần
lớn
bị
loại
khỏi
các
cuốn
sách
giáo
khoa.
Trên
thực
tế,
các
cuốn
sách
giáo
khoa
về
kinh
tế
vi
mô
gần
như
không
thay
đổi
trong
ít
nhất
là
2
thập
kỷ
qua.
Do
đó,
các
sinh
viên
mới
tốt
nghiệp
gặp
nhiều
khó
khăn
để
có
thể
hiểu
được
những
bài
báo
đậm
chất
nghiên
cứu.
Mặc
dù
đúng
là
các
mô
hình
kinh
tế
vi
mô
thực
tế
phức
tạp
hơn
nhiều
so
với
những
gì
được
viết
ra
trong
sách
giáo
khoa,
không
nhất
thiết
phải
mất
nhiều
năm
nghiên
cứu
để
có
thể
nắm
bắt
được
chúng.
Một
ví
dụ
là
thị
trường
hai
bên.
Đây
là
lý
thuyết
nói
đến
sự
cạnh
tranh
giữa
các
hệ
thống
có
sản
phẩm
kết
nối
hai
bộ
phận
người
dùng.
Hai
bộ
phận
này
sau
đó
cung
cấp
cho
bên
còn
lại
những
lợi
ích
của
mạng
lưới.
Khi
một
thị
trường
là
thị
trường
hai
bên,
rất
nhiều
kết
luận
của
phân
tích
chống
độc
quyền
không
còn
đúng
nữa.
Thâm
nhập
thị
trường
có
thể
có
hại
cho
người
tiêu
dùng,
hợp
đồng
độc
quyền
sẽ
khiến
số
doanh
nghiệp
tham
gia
vào
thị
trường
tăng
lên.
Nghiên
cứu
được
thực
hiện
bởi
David
Evans
và
Richard
Schmalensee
miêu
tả
nhiều
trường
hợp
áp
dụng
những
kết
luận
cũ
dẫn
đến
sai
lầm.
Tuy
nhiên,
có
thể
hiểu
được
sự
bất
đồng
về
hành
vi
giữa
thị
trường
hai
bên
và
thị
trường
truyền
thống
bằng
cách
sử
dụng
những
công
cụ
đơn
giản
của
kinh
tế
học
vi
mô
cư
bản,
như
sự
khác
nhau
giữa
hàng
hóa
thay
thế
và
hàng
hóa
bổ
sung.
Khi
các
nhà
sản
xuất
hàng
hóa
thay
thế
thông
đồng
với
nhau,
họ
thường
nâng
giá
hàng
hóa.
Ngược
lại,
những
nhà
sản
xuất
hàng
hóa
bổ
sung
sẽ
hợp
tác
với
nhau
để
hạ
giá
hàng
hóa.
Bởi
vậy,
nếu
hai
hệ
thống
cung
cấp
những
dịch
vụ
tương
tự
là
bổ
sung
cho
nhau,
thâm
nhập
thị
trường
là
có
hại
cho
người
tiêu
dùng.
Trên
thực
tế,
hai
hệ
thống
có
thể
là
bổ
sung
cho
một
nhóm
người
dùng
và
thay
thế
cho
một
nhóm
khác.
Ví
dụ,
các
giai
đoạn
khác
nhau
của
một
giải
bóng
đá
được
truyền
hình
trực
tiếp
trên
tivi
là
hàng
hóa
bổ
sung
cho
khán
giả
nhưng
sẽ
là
hàng
hóa
thay
thế
đối
với
các
công
ty
quảng
cáo.
Thêm
vào
đó,
hợp
đồng
độc
quyền
có
thể
giúp
tăng
cạnh
tranh
bằng
cách
cho
phép
hai
hệ
thống
hoạt
động
trong
cùng
một
thị
trường.
Nói
một
cách
ngắn
gọn
hơn,
với
hiểu
biết
căn
bản
về
sự
khác
nhau
giữa
hàng
hóa
thay
thế
và
bổ
sung,
ai
cũng
có
thể
hiểu
về
những
mô
hình
kinh
tế
phức
tạp
mà
không
cần
phải
tốn
kém
để
thuê
một
chuyên
gia.
Mặc
dù
mô
hình
Arrow-Debreu
cũng
có
giá
trị
riêng
(giải
thích
tại
sao
một
nền
kinh
tế
không
có
kế
hoạch
vẫn
có
thể
hoạt
động
đúng
thứ
tự),
mô
hình
này
không
thể
khuyến
khích
sinh
viên
khi
cuối
cùng
họ
phát
hiện
ra
rằng
đây
là
những
mô
hình
khác
xa
so
với
thực
tế.
Cải
cách
quy
trình
đào
tạo
kinh
tế
học
vi
mô
sẽ
giúp
truyền
đạt
một
thông
điệp
chính
xác
hơn
và
tạo
nhiều
cảm
hứng
hơn:
kể
cả
những
người
có
vốn
kiến
thức
trung
bình
cũng
có
thể
hiểu
và
áp
dụng
những
ý
tưởng
phức
tạp
được
phát
triển
bởi
những
chuyên
gia.
Thu
Hương
Theo
Trí
Thức
Trẻ/Project
Syndicate