Thực
hiện
Nghị
quyết
của
BCH
Trung
ương
khóa
X
về
nông
nghiệp,
nông
dân,
nông
thôn,
những
năm
qua,
nông
thôn
Việt
Nam
đã
có
nhiều
thay
đổi
và
ngày
càng
phát
triển
ổn
định.
Tuy
vậy,
khu
vực
nông
thôn
cũng
đang
đặt
ra
nhiều
thách
thức
về
thu
nhập
cho
nông
dân;
chính
sách
hỗ
trợ;
vệ
sinh
môi
trường;
giao
thông
nông
thôn…
Theo
kết
quả
tổng
điều
tra
nông
thôn,
nông
nghiệp
và
thủy
sản,
tỷ
trọng
hộ
nông,
lâm
nghiệp
và
thủy
sản
khu
vực
nông
thôn
đã
giảm
từ
hơn
71%
(năm
2006)
xuống
còn
62%;
tỷ
trọng
hộ
công
nghiệp,
xây
dựng
và
dịch
vụ
tăng
từ
25%
lên
33,2%.
Toàn
quốc
có
10,36
triệu
hộ
nông,
lâm
nghiệp
và
thủy
sản,
giảm
106.000
hộ.
Trong
nội
bộ
nhóm
hộ
nông,
lâm
và
thủy
sản,
hộ
nông
nghiệp
có
xu
hướng
giảm
đi,
trong
khi
hộ
lâm
nghiệp
và
thủy
sản
tăng
lên.
Phó
Tổng
cục
trưởng
Tổng
cục
Thống
kê
Nguyễn
Văn
Liệu
cho
rằng,
cơ
cấu
ngành
nghề
ở
khu
vực
nông
thôn
có
sự
thay
đổi
nhanh
đã
thể
hiện
xu
hướng
chuyển
đổi
tích
cực
trong
hoạt
động
sản
xuất
ở
nước
ta.
Năm
2011,
thu
nhập
của
hộ
nông
dân
đã
tăng
2,5
lần
so
với
năm
2006.
Tích
lũy
của
hộ
dân
nông
thôn
cũng
tăng
lên
theo
sự
phát
triển
của
kinh
tế
đất
nước,
bình
quân
một
hộ
nông
thôn
đạt
16,8
triệu
đồng,
tăng
2,5
lần.
Đây
là
kết
quả
quan
trọng
trong
chiến
lược
xóa
đói,
giảm
nghèo
của
Chính
phủ
nhằm
cải
thiện
điều
kiện
sống,
sức
khỏe,
phát
triển
sản
xuất
và
cung
cấp
dịch
vụ
tốt
hơn
cho
nông
thôn.
Trong
những
kết
quả
nổi
bật
đó
phải
kể
đến
phong
trào
xây
dựng
hệ
thống
giao
thông
nông
thôn
với
phương
châm
"Nhà
nước
và
nhân
dân
cùng
làm".
Hiện
cả
nước
có
8.940
xã
có
đường
ô
tô
đến
trụ
sở
UBND
xã,
chiếm
98,6%
tổng
số
xã
(năm
1994
là
87,9%,
năm
2001
là
94,5%
và
năm
2006
là
96,9%).
Ông
Đỗ
Thức,
Tổng
cục
trưởng
Tổng
cục
Thống
kê
cho
biết,
kết
quả
lớn
nhất
của
cuộc
tổng
thống
kê
lần
này
đã
cho
thấy
một
bức
tranh
toàn
cảnh
về
thực
trạng
cũng
như
những
vấn
đề
của
nông
thôn,
nông
nghiệp
và
thủy
sản
hiện
nay
ở
Việt
Nam.
Trong
đó,
vấn
đề
nóng
bỏng
và
còn
nhiều
bất
cập
nhất
là
vệ
sinh
môi
trường.
Hiện
cả
nước
mới
chỉ
có
18,3%
số
xã
và
8,4%
số
thôn
có
xây
dựng
hệ
thống
thoát
nước
thải
chung;
43,5%
số
xã
và
22,4%
số
thôn
có
tổ
chức
(hoặc
thuê)
thu
gom
rác
thải…
Công
tác
đầu
tư
kết
cấu
hạ
tầng
nông
thôn
cũng
chưa
đều
giữa
các
vùng
và
địa
phương.
Điển
hình
là
về
điện
khí
hóa,
mặc
dù
số
thôn
sử
dụng
điện
tăng
rất
nhanh
ở
miền
núi
nhưng
đến
nay
vẫn
còn
một
số
tỉnh
miền
núi
phía
Bắc
tỷ
lệ
thôn
chưa
có
điện
khá
cao
như
Lai
Châu
29,2%,
Điện
Biên
24,9%,
Cao
Bằng
22,3%...
Về
giao
thông
nông
thôn,
còn
nhiều
tỉnh
có
gần
1/3
số
thôn
ô
tô
không
thể
đến
được
như
Cà
Mau,
Bạc
Liêu,
Cần
Thơ,
Lai
Châu,
Hậu
Giang,
Kiên
Giang,
Vĩnh
Long…
Đặc
biệt,
hệ
thống
thư
viện
xã
phát
triển
rất
chậm,
mới
có
10%
số
xã
có
thư
viện,
chỉ
tăng
được
3%
trong
10
năm
trở
lại
đây.
Việc
đầu
tư,
phát
triển,
mở
rộng
hệ
thống
nhà
trẻ,
lớp
mẫu
giáo,
hệ
thống
dịch
vụ
y
tế
tư
nhân
đến
cấp
thôn
vẫn
còn
hạn
chế
và
phát
triển
không
đồng
đều
giữa
các
vùng,
các
địa
phương…
Tốc
độ
chuyển
dịch
ngành
nghề
từ
nông
nghiệp
sang
phi
nông
nghiệp
có
sự
chênh
lệch
cao
giữa
các
vùng.
Tỷ
trọng
các
hộ
công
nghiệp,
xây
dựng
và
dịch
vụ
ở
vùng
Trung
du
và
miền
núi
phía
Bắc
chỉ
tăng
từ
11,3%
lên
16,6%,
vùng
Tây
Nguyên
từ
10,2%
lên
12,3%...
Theo
bà
Đỗ
Thị
Thu
Hà,
Phó
Vụ
trưởng
Vụ
Thống
kê
nông,
lâm
nghiệp
và
thủy
sản
(Tổng
cục
Thống
kê),
kết
quả
điều
tra
cảnh
báo,
nếu
chúng
ta
muốn
nông
dân
giữ
nghề
và
phát
triển
ngành
nông
nghiệp
thì
phải
thay
đổi
cơ
chế,
chính
sách,
nếu
không
nông
dân
sẽ
bỏ
nghề
nông
và
chuyển
sang
làm
các
ngành
nghề
khác
có
giá
trị
kinh
tế
và
thu
nhập
cao
hơn.
Hiện
nay,
lợi
nhuận
của
nông
dân
quá
thấp,
trong
khi
các
chi
phí
thì
cao
hơn
rất
nhiều
so
với
các
ngành
nghề
khác.
Ví
dụ
chủ
trương
để
nông
dân
trồng
lúa
lãi
ít
nhất
30%,
nhưng
thực
tế
số
lãi
này
vẫn
chưa
đủ
để
nông
dân
có
thể
trang
trải
cuộc
sống.
Do
vậy,
để
nông
dân
giữ
đất,
giữ
nghề
và
yên
tâm
sản
xuất
thì
phải
có
chính
sách
hỗ
trợ
phù
hợp.
Bên
cạnh
đó
là
sự
vào
cuộc
quyết
liệt
của
các
cấp,
các
ngành
và
của
toàn
xã
hội
trong
việc
chung
tay
xây
dựng
nông
thôn
mới
và
cải
thiện
đời
sống
cư
dân
nông
thôn.
Hệ
thống
giao
thông
đến
cấp
thôn
được
chú
trọng
phát
triển
mạnh
với
89,5%
số
thôn
ô
tô
có
thể
đi
đến.
Mạng
lưới
điện
đến
các
xã
được
đầu
tư,
mở
rộng.
Nếu
năm
1994
cả
nước
mới
có
60,4%
số
xã
và
50%
số
thôn
có
điện,
năm
2006
các
con
số
tương
ứng
là
98,9%
và
92,4%
thì
đến
năm
2011
có
tới
99,8%
số
xã
và
95,5%
số
thôn
có
điện.
Cả
nước
chỉ
còn
16
xã
ở
vùng
hải
đảo,
biên
giới,
vùng
cao
chưa
có
điện.
Mạng
lưới
thông
tin,
văn
hóa,
thể
thao
nông
thôn
đã
phát
triển
mạnh
mẽ,
góp
phần
cải
thiện
đời
sống
vật
chất,
tinh
thần
của
nhân
dân.
Đến
năm
2011
đã
có
81,5%
số
xã
có
hệ
thống
loa
truyền
thanh
đến
thôn;
38,7%
số
xã
có
nhà
văn
hóa;
48%
xã
có
sân
thể
thao…