Với
thực
trạng
hiện
nay,
rất
khó
để
nói
rằng
việc
điều
hành
kinh
doanh
xuất
khẩu
gạo
đạt
được
thành
công.
“Thả
rông”
sản
xuất
làm
khó
xuất
khẩu
Chính
sách
điều
hành
đề
ra
các
mục
tiêu
là
bảo
đảm
lợi
ích
của
người
trồng
lúa;
bảo
đảm
cân
đối
xuất
khẩu
và
tiêu
dùng
nội
địa,
góp
phần
bình
ổn
giá
lúa
gạo
trong
nước
và
bảo
đảm
xuất
khẩu
có
hiệu
quả.
Nhưng
thực
tế
thì
sao?
Dự
báo
năm
nay
xuất
khẩu
gạo
nước
ta
chỉ
đạt
ngưỡng
7
triệu
tấn,
giảm
khoảng
1
triệu
tấn
so
với
năm
2012,
giá
cũng
giảm
khoảng
15-20
USD/tấn.
Nguyên
nhân
bất
cứ
ai
cũng
thấy
là
do
thị
trường
gạo
thế
giới
bị
“bội
thực”.
Thế
nhưng
những
kết
quả
thất
vọng
nói
trên
đã
manh
nha
từ
lâu
do
sự
lệch
pha
giữa
sản
xuất
và
xuất
khẩu
kéo
dài
từ
năm
này
qua
năm
khác.
Nghị
định
109
chỉ
xoay
quanh
hoạt
động
kinh
doanh
xuất
khẩu
gạo,
còn
hoạt
động
sản
xuất
lúa
như
thế
nào
thì
vẫn
do
cả
triệu
hộ
nông
dân
tùy
nghi
định
đoạt.
Thị
trường
gạo
trong
nước
ngày
càng
có
nhu
cầu
đòi
hỏi
cao
về
chất
lượng.
Ảnh:
HTD
Các
số
liệu
thống
kê
cho
thấy
năm
2011,
trong
khi
lượng
gạo
sản
xuất
trong
nước
tăng
“khủng”
khoảng
1,5
triệu
tấn
thì
lượng
gạo
xuất
khẩu
chỉ
tăng
nhỏ
giọt
trên
200.000
tấn.
Còn
năm
2012
sản
lượng
gạo
sản
xuất
chỉ
tăng
khoảng
800.000
tấn
nhưng
lượng
xuất
khẩu
lại
tăng
900.000
tấn.
Tuy
nhiên,
lượng
gạo
sản
xuất
rất
lớn
từ
năm
2011
đã
tạo
ra
sức
ép
quá
lớn
cho
xuất
khẩu
năm
2012
và
kéo
sang
cả
năm
2013.
Năm
2013,
sản
xuất
được
“thả
rông”
vẫn
tiếp
tục
tăng
khoảng
700.000
tấn,
trong
khi
lượng
gạo
xuất
khẩu
ước
tính
giảm
mạnh
đương
nhiên
gây
áp
lực
lên
giá
gạo
xuất
khẩu
và
giá
lúa
gạo
trong
nước
giảm.
Như
vậy
“bài
ca”
được
mùa
bán
giá
thấp,
nông
dân
lỗ
tiếp
diễn.
Một
thực
tế
khác,
thị
trường
xuất
khẩu
gạo
của
chúng
ta
hầu
như
liên
tục
ở
trong
tình
trạng
giá
sàn
xuất
khẩu
gạo
một
đường,
giá
chào
xuất
khẩu
một
nẻo.
Và
cho
đến
nay,
giá
sàn
gạo
xuất
khẩu
đã
được
Bộ
Tài
chính,
Bộ
Công
Thương
và
Hiệp
hội
Lương
thực
Việt
Nam
(VFA)
đưa
ra
có
cũng
như
không.
Tất
cả
điều
nói
trên
cho
thấy
chúng
ta
vẫn
chưa
thể
chữa
được
“căn
bệnh
nghịch
lý”
giảm
lượng
gạo
xuất
khẩu
khi
được
mùa,
giá
cao
và
ngược
lại,
tăng
tốc
xuất
khẩu
khi
giá
rẻ.
Vẫn
thiếu
thương
hiệu
Có
thể
nói
Nghị
định
109
chỉ
hướng
tới
duy
trì
một
hệ
thống
phân
phối
lúa
gạo
dựa
trên
một
nền
nông
nghiệp
lúa
nước
tiểu
nông,
mạnh
ai
nấy
làm
từ
nhiều
thập
kỷ
qua.
Không
hề
có
sự
thúc
đẩy
nâng
cao
trình
độ
phát
triển,
đáp
ứng
những
đòi
hỏi
về
chất
lượng
ngày
càng
khắt
khe
của
thị
trường.
Xuất
khẩu
chỉ
nhắm
vào
những
thị
trường
chủ
yếu
quan
tâm
đến
chuyện
“ăn
no”
và
giá
rẻ,
cho
nên
Việt
Nam
vẫn
chỉ
là
“quan
sát
viên”
đối
với
những
thị
trường
đòi
hỏi
khắt
khe
về
chất
lượng,
coi
trọng
thương
hiệu,
chấp
nhận
giá
mua
cao.
Có
thể
khẳng
định
một
cách
chắc
chắn
rằng
việc
chúng
ta
đang
quá
khó
khăn
trong
việc
tìm
kiếm
thị
trường
xuất
khẩu
gạo
thay
thế
hiện
nay
chủ
yếu
là
do
nguyên
nhân
này.
Nói
tóm
lại,
thị
trường
lúa
gạo
cần
có
một
chính
sách
pháp
lý
điều
hành
phù
hợp
mở
đường
tăng
chất,
tăng
giá
trị
và
có
thương
hiệu.
Từ
đó,
các
doanh
nghiệp
kinh
doanh
lúa
gạo
phải
liên
kết
chặt
chẽ
với
nông
dân
xây
dựng
các
vùng
lúa
nguyên
liệu
đáp
ứng
những
nhu
cầu
cụ
thể.
Đây
cũng
là
vấn
đề
mấu
chốt
trong
việc
sản
xuất
và
xuất
khẩu
hàng
loạt
nông
sản
chủ
yếu
khác
của
nước
ta.
Việc
chúng
ta
đã
trở
thành
quốc
gia
xuất
khẩu
hàng
đầu
thế
giới
từ
lâu
nhưng
đang
ngày
càng
thất
thế
trên
thị
trường,
vì
chỉ
xuất
khẩu
những
nông
sản
“vô
danh”
với
giá
quá
rẻ
mạt,
còn
những
người
nông
dân
thì
vẫn
rất
nghèo
đủ
chứng
tỏ
điều
đó.
Không
nên
bỏ
quên
thị
trường
trong
nước
Thị
trường
gạo
trong
nước
vốn
dễ
tính
nhưng
đang
ngày
càng
có
nhu
cầu
đòi
hỏi
về
chất
lượng
và
chấp
nhận
giá
cao.
Với
thu
nhập
của
một
bộ
phận
đông
đảo
dân
cư
đã
khá
cao,
nhất
là
ở
khu
vực
đô
thị,
chắc
chắn
nhu
cầu
này
sẽ
tăng
mạnh
trong
những
năm
tới.
Vì
vậy,
cần
có
chính
sách
phát
triển
chăm
sóc
tốt
thị
trường
này.
NGUYỄN ĐÌNH BÍCH
Nguồn tin: PLTPHCM
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn
Đang truy cập : 364
•Máy chủ tìm kiếm : 20
•Khách viếng thăm : 344
Hôm nay : 50097
Tháng hiện tại : 882554
Tổng lượt truy cập : 44250239