Hành
trình
tái
cấu
trúc
hệ
thống
ngân
hàng
đã
qua
một
quãng
đường
hơn
2
năm,
nhưng
vấn
đề
sở
hữu
chéo
vẫn
là
một
thách
thức
lớn
vì
đây
là
tác
nhân
mấu
chốt
làm
chậm
quá
trình
tái
cơ
cấu
hệ
thống
ngân
hàng.
“Mạng
nhện”
sở
hữu
chéo
Theo
đề
án
cơ
cấu
lại
hệ
thống
các
tổ
chức
tín
dụng
giai
đoạn
2011-2015
thì
trong
hai
năm
2011-2012
phải
phân
loại
các
tổ
chức
tín
dụng
và
thực
hiện
mua
bán
sáp
nhập
ngân
hàng
yếu
kém,
đến
năm
2014
hoàn
thành
căn
bản
xử
lý
nợ
xấu,
năm
2015
cơ
bản
tái
cơ
xấu
xong
hoạt
động
và
quản
trị.
Tuy
nhiên,
đến
cuối
năm
2013,
hoạt
động
sáp
nhập
các
ngân
hàng
vẫn
chưa
được
thực
hiện
triệt
để,
quá
trình
xử
lý
nợ
xấu
mới
được
bắt
đầu.
Theo
Chủ
tịch
Ủy
ban
Giám
sát
Tài
chính
Quốc
gia
Vũ
Viết
Ngoạn,
tình
trạng
sở
hữu
chéo,
đầu
tư
chéo
với
sự
"bắt
tay"
của
ngân
hàng
–
chứng
khoán
–
bảo
hiểm
đang
khiến
dòng
chảy
đồng
tiền
trong
hệ
thống
tài
chính
méo
mó.
Ngoài
ra,
những
hạn
chế
về
tính
minh
bạch
cung
cấp
thông
tin
và
chuẩn
mực
kế
toán...
đang
tạo
điều
kiện
để
sở
hữu
chéo,
đầu
tư
chéo
phát
huy
mặt
tiêu
cực.
Đơn
cử
hình
thức
sở
hữu
lẫn
nhau
giữa
các
ngân
hàng
thương
mại
cổ
phần
cũng
khá
phức
tạp,
như
Eximbank
hiện
nắm
10,6%
cổ
phần
tại
Sacombank
và
8,5%
cổ
phần
tại
Ngân
hàng
Việt
Á...
Các
chuyên
gia
cho
rằng,
sở
hữu
chéo,
đầu
tư
chéo
tiềm
ẩn
rủi
ro
hệ
thống
và
bóp
méo
cạnh
tranh.
Khi
các
tổ
chức
tín
dụng
liên
kết
thành
một
“mạng
nhện”
sẽ
nảy
sinh
độc
quyền
nhóm.
Liên
minh
tổ
chức
tín
dụng
này
có
thể
đủ
sức
mạnh
để
chi
phối
lãi
suất,
tỷ
giá
và
kể
cả
chính
sách,
dẫn
đến
rủi
ro
mang
tính
hệ
thống.
Điều
này
có
thể
gây
xáo
trộn
thị
trường
và
thiệt
hại
cho
nền
kinh
tế.
Ngoài
ra,
sở
hữu
chéo,
đầu
tư
chéo
làm
gia
tăng
nguy
cơ
rủi
ro
chéo
giữa
các
khu
vực
thị
trường
trên
thị
trường
tài
chính
quốc
gia.
Chẳng
hạn,
việc
các
tổ
chức
tín
dụng
bơm
vốn
cho
công
ty
con
hoạt
động
trong
lĩnh
vực
chứng
khoán,
bảo
hiểm
và
ngược
lại
công
ty
con
thực
hiện
các
giao
dịch
phục
vụ
lợi
ích
của
tổ
chức
tín
dụng
tiềm
ẩn
nguy
cơ
rủi
ro
cao
và
khả
năng
lan
truyền
rủi
ro
giữa
các
khu
vực
thị
trường
tài
chính.
Các
chuyên
gia
cho
biết,
thông
tin
thu
thập
từ
4
ngân
hàng
thương
mại
Nhà
nước
và
8
ngân
hàng
thương
mại
cổ
phần
lớn
nhất
cho
thấy
11/12
ngân
hàng
có
công
ty
chứng
khoán
là
công
ty
con
hoặc
công
ty
liên
kết;
8/12
ngân
hàng
có
công
ty
quản
lý
quỹ,
đầu
tư
tài
chính;
9/12
ngân
hàng
có
công
ty
con
hoặc
công
ty
liên
kết
đầu
tư
bất
động
sản
và
5/12
ngân
hàng
có
vốn
góp
tại
các
công
ty
bảo
hiểm.
“Điều
này
đặt
ra
thách
thức
không
nhỏ
đối
với
các
nhà
hoạch
định
chính
sách
trong
việc
lựa
chọn
giải
pháp
để
cấu
trúc
lại
thị
trường.
Nếu
cho
ra
đời
một
ngân
hàng
thương
mại
quy
mô
lớn
tầm
cỡ
khu
vực
sẽ
làm
gia
tăng
tình
trạng
thị
phần
của
1
nhóm
ngân
hàng
sẽ
quá
lớn,
theo
đó
sẽ
làm
gia
tăng
rủi
ro
tiềm
ẩn
hệ
thống,”
ông
Ngoạn
cảnh
báo.
Phá
liên
kết
"ngầm"
Bà
Trần
Thị
Thanh
Tú,
Phó
trưởng
khoa
Tài
chính
Ngân
hàng,
Trường
Đại
học
Kinh
tế,
Đại
học
Quốc
gia
Hà
Nội
nhận
định,
một
trong
những
vướng
mắc
cơ
bản
của
quá
trình
tái
cơ
cấu
hệ
thống
ngân
hàng
là
thiếu
một
cơ
quan
điều
phối
chung
giữa
các
bên
có
liên
quan
trong
quá
trình
tái
cơ
cấu.
Theo
bà
Tú,
kinh
nghiệm
quốc
tế
cho
thấy
ở
tất
cả
các
nước
tái
cơ
cấu
thành
công
đều
cần
có
một
cơ
quan
điều
phối
quá
trình
tái
cơ
cấu.
Trong
điều
kiện
Việt
Nam,
Ngân
hàng
Nhà
nước
có
lợi
thế
là
đơn
vị
đứng
ra
tổ
chức
thực
hiện,
song
cũng
có
những
bất
lợi
nhất
định
như
quá
tải
về
nguồn
nhân
lực.
Một
số
chuyên
gia
đã
chỉ
ra
những
nguy
hiểm
của
sở
hữu
chéo
trong
hệ
thống
ngân
hàng
và
rủi
ro
khi
dùng
chính
sở
hữu
chéo
để
tái
cơ
cấu
ngân
hàng.
Các
chuyên
gia
lấy
ví
dụ
trường
hợp
sáp
nhập
3
ngân
hàng:
SBC,
Tín
Nghĩa
và
Đệ
Nhất
khi
cả
ba
ngân
hàng
đều
cùng
một
chủ
nên
việc
hợp
nhất
này
không
giải
quyết
được
tình
trạng
yếu
kém
cố
hữu
và
nợ
xấu
của
các
ngân
hàng
này.
Theo
các
chuyên
gia
cần
khoanh
vùng
tiến
hành
điều
tra
toàn
diện
về
cơ
cấu
sở
hữu
ngân
hàng
và
có
lộ
trình
xử
lý
dứt
điểm
tình
trạng
sở
hữu
chéo,
sở
hữu
chi
phối
ngân
hàng.
Bà
Tú
kiến
nghị,
việc
đầu
tiên
là
cần
ban
hành
các
quy
định
có
liên
quan
đến
việc
công
bố
thông
tin
của
các
ngân
hàng
về
quản
trị
công
ty,
trong
đó
có
quy
định
chặt
chẽ
về
công
bố
thông
tin
việc
nắm
giữ
cổ
phiếu
hay
các
giao
dịch
lớn
(trên
5%
tổng
số
cổ
phiếu)
của
những
người
có
liên
quan
trong
ngân
hàng.
Khi
đó,
cơ
quan
thanh
tra
giám
sát
ngân
hàng
sẽ
có
công
cụ
để
giám
sát
một
cách
hiệu
quả
tình
trạng
này.
Ông
Bùi
Huy
Thọ,
Phó
Vụ
Trưởng
Vụ
Quản
lý
cấp
phép
thuộc
Cơ
quan
Thanh
tra,
Giám
sát
ngân
hàng-Ngân
hàng
Nhà
nước
Việt
Nam
cho
biết,
Ngân
hàng
Nhà
nước
sẽ
tăng
cường
thanh
tra,
kiểm
tra
việc
sở
hữu
chéo,
đầu
tư
chéo
giữa
các
tổ
chức
tín
dụng,
công
ty
con,
cổ
đông;
xử
lý
các
vi
phạm
giới
hạn
sở
hữu
cổ
phần,
giới
hạn
cho
vay
cổ
đông
và
người
có
liên
quan.
Trường
hợp
cần
thiết,
phối
hợp
với
cơ
quan
điều
tra
nhằm
xác
minh
các
trường
hợp
vi
phạm
pháp
luật
để
có
biện
pháp
xử
lý
phù
hợp.
Ông
Thọ
kiên
quyết,
Ngân
hàng
Nhà
nước
sẽ
không
xem
xét
chấp
thuận
việc
các
cổ
đông
và
người
có
liên
quan
tham
gia
các
đợt
tăng
vốn
của
tổ
chức
tín
dụng
để
giảm
dần
mức
vi
phạm
và
yêu
cầu
bắt
buộc
các
cổ
đông
vi
phạm
có
lộ
trình
thoái
vốn
trong
phương
án
tái
cơ
cấu.
Tuy
nhiên,
ông
Thọ
cũng
thừa
nhận,
sự
thiếu
hợp
tác,
thậm
chí
chống
đối
từ
phía
cổ
đông
lớn
của
một
số
tổ
chức
tín
dụng
yếu
kém
đối
với
chính
sách
đã
gây
không
ít
khó
khăn
và
làm
chậm
quá
trình
cơ
cấu
lại
các
tổ
chức
tín
dụng
này.
Theo
Minh
Thúy
Vietnam+