Đã
xuất
hiện
không
ít
ý
kiến
lo
ngại
về
nguy
cơ
tăng
trưởng
nóng
của
công
nghiệp
xe
máy
Việt
Nam,
từ
đó
có
thể
dẫn
đến
một
số
khó
khăn
nhất
định.
Đua
nhau
mở
rộng
nhà
máy
Số
liệu
từ
Tổng
cục
Thống
kê
cho
biết,
ước
tính
10
tháng
năm
2011
lượng
xe
máy
sản
xuất,
lắp
ráp
trong
nước
đã
vượt
mức
3,37
triệu
chiếc,
tăng
20,2%
so
với
cùng
kỳ
năm
ngoái.
Tính
riêng
trong
tháng
10/2011,
lượng
xe
máy
sản
xuất,
lắp
ráp
trong
nước
đạt
398.800
chiếc,
tăng
25,6%
so
với
tháng
10/2010.
Cộng
dồn
đến
hết
tháng
9,
các
nhà
sản
xuất
xe
máy
đã
cho
xuất
xưởng
trên
2,97
triệu
chiếc.
Cùng
với
đó,
chỉ
số
sản
xuất
công
nghiệp
xe
máy
Việt
Nam
cũng
đang
tăng
khá
mạnh.
So
với
tháng
9,
chỉ
số
sản
xuất
công
nghiệp
xe
máy
tháng
10/2011
tăng
7,5%.
Tương
ứng
là
mức
tăng
24%
so
với
tháng
10/2010.
Tính
đến
hết
10
tháng,
chỉ
số
sản
xuất
công
nghiệp
xe
máy
cũng
đã
đạt
tăng
trưởng
19,9%
so
với
cùng
kỳ
2010.
Trong
khi
cả
sản
lượng
sản
xuất
lẫn
chỉ
số
ngành
đều
tăng
ở
mức
cao
thì
tốc
độ
tiêu
thụ
nhóm
sản
phẩm
này
lại
tăng
chậm
hơn,
đạt
18%.
Báo
cáo
của
Tổng
cục
Thống
kê
cho
biết
thêm,
tại
thời
điểm
1/10/2011,
chỉ
số
tồn
kho
của
ngành
công
nghiệp
xe
máy
tăng
đến
49,5%
so
với
cùng
thời
điểm
năm
trước.
Theo
dõi
diễn
biến
của
ngành
công
nghiệp
và
thị
trường
xe
máy
thời
gian
qua
cũng
không
khó
nhận
ra
hiện
tượng
này.
Trong
vòng
một
năm
trở
lại
đây,
nhiều
doanh
nghiệp
xe
máy
đã
liên
tiếp
công
bố
các
kế
hoạch
mở
rộng
đầu
tư,
tăng
năng
lực
sản
xuất.
Có
thể
lấy
một
vài
điển
hình
ở
ngay
những
doanh
nghiệp
đang
chiếm
thị
phần
lớn.
Đầu
tiên
là
Honda.
Năm
2010,
liên
doanh
hiện
đang
một
mình
chiếm
đến
quá
nửa
thị
trường
xe
máy
Việt
Nam
đã
đầu
tư
thêm
70
triệu
USD
để
mở
rộng
nhà
máy,
theo
đó
nâng
tổng
công
suất
của
hai
nhà
máy
tại
Vĩnh
Phúc
từ
1,5
triệu
chiếc
lên
2
triệu
chiếc/năm.
Một
năm
sau
đó,
liên
doanh
này
tiếp
tục
công
bố
xây
dựng
nhà
máy
thứ
3
tại
khu
công
nghiệp
Đồng
Văn
2
(Hà
Nam)
với
số
vốn
đầu
tư
hơn
120
triệu
USD,
đưa
tổng
công
suất
của
cả
ba
nhà
máy
lên
mức
2,5
triệu
chiếc/năm.
Cách
đây
chưa
lâu,
nhà
sản
xuất
xe
máy
lớn
khác
cùng
đến
từ
Nhật
Bản
là
Yamaha
cũng
đã
quyết
định
đầu
tư
thêm
gần
30
triệu
USD
để
mở
rộng
nhà
máy,
tăng
năng
lực
sản
xuất
lên
khoảng
1,5
triệu
chiếc/năm.
Chiếm
ưu
thế
với
các
dòng
xe
tay
ga
cao
cấp
và
thời
trang,
Piaggio
Việt
Nam
cũng
đã
chính
thức
động
thổ
nhà
máy
mở
rộng
tại
Vĩnh
Phúc
hồi
tháng
4
năm
nay,
theo
đó
nâng
công
suất
nhà
máy
lên
mức
300.000
xe/năm.
Thậm
chí,
tập
đoàn
xe
máy
đến
từ
nước
Ý
còn
công
bố
kế
hoạch
đưa
trụ
sở
khu
vực
từ
Singapore
về
Việt
Nam,
xây
dựng
Piaggio
Việt
Nam
thành
đại
bản
doanh
của
khu
vực,
trở
thành
một
trong
những
trung
tâm
sản
xuất
và
xuất
khẩu.
Đến
thời
điểm
này,
các
nhà
máy
mới
hay
nhà
máy
mở
rộng
kể
trên
đều
vẫn
đang
trong
giai
đoạn
hoàn
thiện
song
sản
lượng
xe
máy
cũng
đã
tăng
rất
cao.
Trong
khi
đó,
thị
trường
xe
máy
lại
đang
tăng
trưởng
chậm
lại.
Theo
các
dữ
liệu
mà
Tổng
cục
Thống
kê
cung
cấp,
ở
thời
điểm
này
cũng
đã
xuất
hiện
dấu
hiệu
dư
thừa
xe
máy.
Và
từ
khoảng
cuối
năm
2012,
khi
các
nhà
máy
mới
và
nhà
máy
mở
rộng
bắt
đầu
cho
“ra
lò”
sản
phẩm
thì
khả
năng
dư
thừa
là
rất
hiện
thực.
Thử
làm
phép
tính
sơ
bộ
với
sản
lượng
của
Honda
là
2,5
triệu
chiếc,
Yamaha
1,5
triệu
chiếc,
Piaggio
300.000
chiếc,
SYM
300.000
chiếc,
Suzuki
200.000
chiếc
và
một
số
doanh
nghiệp
khác
khoảng
hơn
100.000
chiếc,
tổng
sản
lượng
xe
máy
sản
xuất
trong
nước
sẽ
lên
mức
xấp
xỉ
5
triệu
chiếc/năm.
Trong
khi
quy
mô
sản
xuất
xe
máy
tăng
mạnh
và
ở
mức
cao
thì
theo
tính
toán,
nhu
cầu
thị
trường
đang
ở
mức
thấp
hơn
khá
nhiều.
Ví
dụ
năm
2009
cả
nước
tiêu
thụ
khoảng
2,75
triệu
chiếc,
sang
năm
2010
đạt
mức
gần
3
triệu
chiếc
và
năm
2011
được
dự
báo
sẽ
đạt
khoảng
3,3
triệu
chiếc.
Bão
hòa
sớm
Điều
đáng
lo
ngại
là
thị
trường
xe
máy
Việt
Nam
nhiều
khả
năng
sẽ
bão
hòa
sớm
hơn
so
với
những
dự
báo
trước
đây.
Chẳng
hạn,
Bộ
Công
Thương
từng
tính
toán
vào
năm
2020
số
xe
máy
lưu
hành
trên
cả
nước
sẽ
đạt
khoảng
33,5
triệu
chiếc,
dân
số
đạt
khoảng
99,6
triệu
người,
đưa
tỷ
lệ
sử
dụng
xe
máy
ở
Việt
Nam
lên
tới
2,97
người/xe.
Tại
Thái
Lan,
tỷ
lệ
này
hiện
là
2,9
và
đã
đạt
mức
bão
hòa.
Hay
như
dự
báo
của
GS.
Kenichi
Ohno,
Viện
Nghiên
cứu
chính
sách
Quốc
gia
Nhật
Bản,
khi
lượng
xe
máy
tại
Việt
Nam
đạt
tới
con
số
30
triệu
chiếc,
thị
trường
sẽ
bão
hòa.
Thời
điểm
này
dự
tính
sẽ
rơi
vào
những
năm
2017-2020.
Tuy
nhiên,
theo
một
thống
kê
của
Bộ
Giao
thông
Vận
tải,
tính
đến
tháng
8/2011,
lượng
xe
máy
đăng
ký
lưu
hành
đã
đạt
mức
33,4
triệu
chiếc.
Đối
chiếu
với
các
tính
toán
trên
thì
thực
tế
thị
trường
xe
máy
Việt
Nam
ngay
từ
thời
điểm
này
đã
chạm
ngưỡng
bão
hòa.
Vấn
đề
đặt
ra
là
khi
thị
trường
đã
bắt
đầu
bão
hòa
mà
nguồn
cung
lại
tăng
nóng
(ít
nhất
là
xét
trên
quy
mô,
năng
lực
sản
xuất)
thì
bức
tranh
của
ngành
công
nghiệp
xe
máy
sẽ
thế
nào?
Đối
với
các
doanh
nghiệp,
bối
cảnh
hiện
hữu
là
không
tận
dụng
được
hết
năng
lực
nhà
máy,
sản
xuất
có
nguy
cơ
đình
trệ
cục
bộ,
ít
nhiều
lãng
phí
các
khoản
đầu
tư
mới,
từ
đó
giá
thành
sản
phẩm
bị
đẩy
cao
hơn…
Như
vậy,
việc
“vẽ”
lại
bản
đồ
thị
trường
có
lẽ
cần
được
thực
hiện
sớm,
đặc
biệt
là
khi
“gánh
nặng”
giao
thông
tại
các
đô
thị
lớn
hiện
đã
ở
mức
báo
động
mà
biểu
hiện
rõ
rệt
nhất
là
chỉ
đạo
xây
dựng
đề
án
cấm
lưu
hành
xe
máy
tại
các
thành
phố
như
Hà
Nội
hay
Tp.HCM
mới
đây
của
Chính
phủ.