Nghiên
cứu
này
của
VCCI
tiến
hành
rà
soát
16
luật
và
các
văn
bản
hướng
dẫn
của
Chính
phủ
đang
có
hiệu
lực
và
được
thực
hiện
trong
hai
năm
qua.
Sáng
2/11,
Phòng
Thương
mại
và
Công
nghiệp
Việt
Nam
(VCCI)
đã
chính
thức
công
bố
báo
cáo
rà
soát
16
luật
và
các
văn
bản
hướng
dẫn
để
làm
cơ
sở
cho
việc
điều
chỉnh,
sửa
đổi
nhằm
hoàn
thiện
môi
trường
kinh
doanh.
Nghiên
cứu
này
của
VCCI
tiến
hành
rà
soát
16
luật
và
các
văn
bản
hướng
dẫn
của
Chính
phủ
đang
có
hiệu
lực
và
được
thực
hiện
trong
hai
năm
qua.
Đây
là
những
văn
bản
pháp
luật
có
quy
định
liên
quan
nhiều
nhất
và
có
nhiều
vướng
mắc
đến
thời
điểm
hiện
nay,
gồm
Luật
Đất
đai,
Luật
Doanh
nghiệp,
Luật
Đầu
tư,
Luật
Thương
mại,
Luật
Dân
sự,
Luật
Hàng
hải,
Luật
Đấu
thầu,
Luật
Xây
dựng,
Luật
Sở
hữu
trí
tuệ,
Luật
Hải
quan,
Luật
Bảo
vệ
môi
trường,
Luật
Quản
lý
thuế,
Luật
Kế
toán,
Luật
Thuế
Giá
trị
gia
tăng,
Luật
Thuế
thu
nhập
doanh
nghiệp
và
khoảng
200
văn
bản
hướng
dẫn
của
Chính
phủ
và
các
bộ
ngành.
Quá
trình
nghiên
cứu
rà
soát
này
được
thực
hiện
với
sự
hợp
tác
của
các
chuyên
gia
pháp
lý
về
kinh
doanh
của
dự
án
hỗ
trợ
hội
nhập
kinh
tế
quốc
tế
(USAID,
Hoa
Kỳ)
và
đóng
góp
ý
kiến
trực
tiếp
của
rất
nhiều
chuyên
gia
pháp
lý,
đại
diện
cho
các
hiệp
hội
doanh
nghiệp,
doanh
nghiệp
tại
16
cuộc
hội
thảo
do
VCCI
tổ
chức
và
qua
các
phương
tiện
thông
tin
truyền
thông.
Trên
cơ
sở
tổng
hợp
kết
quả
nghiên
cứu
rà
soát
các
quy
định
cụ
thể,
các
chuyên
gia
đã
chỉ
ra
8
“cái
được”
của
các
luật
này,
trong
đó
quan
trọng
nhất
là
các
quy
định
hiện
hành
đã
tạo
điều
kiện
cho
các
doanh
nghiệp
được
tiếp
cận
thị
trường,
tiếp
cận
các
nguồn
lực:
đất
đai,
vốn,
nhân
lực…
Bên
cạnh
đó,
các
quy
định
pháp
luật
ngày
càng
tạo
thuận
lợi
cho
các
nhà
đầu
tư,
doanh
nghiệp
được
mở
rộng
nhiều
quyền
lực
chọn
về
hình
thức,
phạm
vi
và
điều
kiện
hoạt
động
như:
quyền
lựa
chọn
hình
thức
doanh
nghiệp,
hình
thức
đầu
tư,
hình
thức
kinh
doanh,
hình
thức
sử
dụng
đất,
hình
thức
giao
dịch,
hình
thức
giải
quyết
tranh
chấp…
Các
tổ
chức,
cá
nhân
thuộc
nhiều
thành
phần
kinh
tế
khác
nhau,
thuộc
nhiều
thành
phần
kinh
tế
cũng
được
đối
xử
trong
một
môi
trường
pháp
lý
bình
đẳng
hơn,
công
bằng
hơn,
như
không
phân
biệt
thành
phần
kinh
tế
để
nhà
đầu
tư
có
mặt
bằng
để
triển
khai
chiến
lược
đầu
tư
theo
năng
lực.
Tuy
nhiên,
kết
quả
rà
soát
các
quy
định
hiện
hành
của
16
luật
và
các
văn
bản
hướng
dẫn
đã
phát
hiện
một
số
bất
cập,
vướng
mắc
điển
hình
liên
quan
đến
hoạt
động
của
doanh
nghiệp.
Bên
cạnh
đó
là
một
số
quy
định
pháp
luật
chưa
bảo
đảm
quyền
tự
do
kinh
doanh
và
tạo
thuận
lợi
cho
việc
gia
nhập
thị
trường.
Về
tiếp
cận
đất
đai,
các
quy
định
hiện
hành
vẫn
hạn
chế
doanh
nghiệp
về
các
hình
thức
trả
tiền
thuê
đất
một
lần
trong
toàn
bộ
quá
trình
thuê
không
những
làm
hạn
chế
quyền
bình
đẳng
khi
tiếp
cận
đất
đai,
mà
còn
chưa
bảo
đảm
tối
đa
quyền
của
các
doanh
nghiệp
trong
quá
trình
sử
dụng
đất.
Về
tiếp
cận
vốn,
theo
các
quy
định
hiện
hành
các
nhà
đầu
tư
mới
được
phép
tiếp
cận
vốn
vay
của
tổ
chức
tín
dụng
được
phép
hoạt
động
tại
Việt
Nam
nhưng
chưa
được
phép
vay
tiền
của
tổ
chức
tín
dụng
nước
ngoài.
Quy
định
về
quyền
sử
dụng
đất
có
phân
biệt
giữa
hình
thức
thuê
đất
trả
tiền
thuê
hàng
năm
và
trả
tiền
thuê
một
lần
khiến
các
doanh
nghiệp
khó
tiếp
cận
vốn
từ
các
tổ
chức
tín
dụng
hình
thành
từ
đất
đai
do
không
thể
được
dùng
quyền
sử
dụng
đất
trong
các
giao
dịch
dân
sự
về
đất
đai.
Về
tiếp
cận
thị
trường,
các
quy
định
liên
quan
đến
thủ
tục
đăng
ký
đầu
tư,
thẩm
tra
đầu
tư
còn
trùng
lặp,
phiền
hà
cho
nhà
đầu
tư,
chưa
minh
bạch
về
mục
tiêu
của
các
thủ
tục
này
và
chưa
rõ
về
giá
trị
pháp
lý
của
giấy
chứng
nhận
đầu
tư.
Yêu
cầu
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
lần
đầu
đầu
tư
vào
Việt
Nam
phải
có
dự
án
đầu
tư
là
chưa
hợp
lý
và
có
thể
dẫn
đễn
việc
không
khuyến
khích
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
thành
lập
doanh
nghiệp
mới
nhưng
khuyến
khích
việc
mua
lại
cổ
phần,
phần
vốn
góp
của
các
doanh
nghiệp
đã
thành
lập.
Một
vấn
đề
khác
là
các
các
luật
cũng
chưa
quy
định
rõ
trường
hợp
hoạt
động
đầu
tư,
kinh
doanh
của
nhà
đầu
tư
nước
ngoài
trong
ngành
hoặc
phân
ngành
dịch
vụ
“chưa
cam
kết”
hoặc
không
được
liệt
kê
trong
biểu
cam
kết
WTO
nên
một
số
doanh
nghiệp
không
được
đăng
ký
kinh
doanh
ngành
nghề
trong
lĩnh
vực
đầu
tư
có
điều
kiện.
Về
thủ
tục,
điều
kiện
kinh
doanh,
một
số
quy
định
hiện
hành
về
thủ
tục,
điều
kiện
kinh
doanh
đang
hạn
chế
quyền
tự
do
kinh
doanh
của
doanh
nghiệp
như:
quyền
của
lợi
của
thương
nhân
nước
ngoài
trong
việc
tiếp
cận
thị
trường
của
doanh
nghiệp
kinh
doanh
bảo
hiểm
nước
ngoài;
thủ
tục
cấp
giấy
phép
kinh
doanh
và
giấy
phép
thành
lập
cơ
sở
bán
lẻ
trùng
lặp
với
Giấy
chứng
nhận
đầu
tư.
Nghiên
cứu
cũng
chỉ
ra
rằng
một
số
quy
định
pháp
luật
chưa
khuyến
khích
bảo
hộ
đầu
tư.
Các
quy
định
hiện
hành
chưa
khuyến
khích
và
bảo
hộ
nhà
đầu
tư
trong
một
số
lĩnh
vực
như:
thiếu
cơ
chế
đảm
bảo
thực
thi,
các
thủ
tục
hành
chính
còn
yếu
kém,
còn
rườm
rà,
phức
tạp
gây
khó
khăn
cho
nhà
đầu
tư,
doanh
nghiệp.
Hơn
thế,
một
số
quy
định
pháp
luật
còn
phân
biệt
đối
xử,
chưa
bảo
đảm
công
bằng.
Trong
các
quy
định
hiện
hành
vẫn
còn
các
quy
định
phân
biệt
đối
xử,
chưa
bảo
đảm
công
bằng,
chưa
bình
đẳng
giữa
các
tổ
chức
kinh
tế,
hộ
gia
đình,
cá
nhân
trong
nước
và
tổ
chức,
cá
nhân
nước
ngoài,
người
Việt
Nam
định
cư
ở
nước
ngoài.
Chẳng
hạn,
cá
nhân
nước
ngoài
chưa
được
giao
đất
có
thu
tiền
sử
dụng
đất,
vẫn
còn
quy
định
phân
biệt
tổ
chức
kinh
tế
100%
vốn
nước
ngoài
với
tổ
chức
kinh
tế
liên
doanh
(cũng
có
vốn
nước
ngoài)
và
tổ
chức
100%
vốn
trong
nước;
chưa
coi
doanh
nghiệp
được
thành
lập
ở
Việt
Nam
có
sở
hữu
của
tổ
chức,
cá
nhân
nước
ngoài
là
doanh
nghiệp
Việt
Nam
theo
Luật
Đầu
tư...
Với
việc
phân
tích
chi
tiết
những
khiếm
khuyết
của
từng
luật
và
hệ
thống
văn
bản
hướng
dẫn,
báo
cáo
đưa
ra
khuyến
nghị
Quốc
hội
cần
đưa
vào
chương
trình
xây
dựng
luật,
pháp
lệnh
sửa
đổi
các
luật
được
rà
soát
trong
đợt
này.