SJC
được
chỉ
định
để
sản
xuất
vàng
miếng,
song
sản
xuất
bao
nhiêu
phải
theo
hạn
mức
của
NHNN.Trong
khi
nhu
cầu
không
bị
hạn
chế
thì
nguồn
cung
lại
phụ
thuộc
vào
ý
chí
của
cơ
quan
quản
lý.
Xem
vàng
như
ngoại
tệ
Ngày
20-10,
Chính
phủ
ban
hành
Nghị
định
95/2011/NĐ-CP
sửa
đổi,
bổ
sung
nghị
định
về
xử
phạt
hành
chính
trong
lĩnh
vực
tiền
tệ
và
hoạt
động
ngân
hàng.
Thị
trường
dễ
dàng
nhận
thấy
các
vi
phạm
trong
giao
dịch
vàng
phần
lớn
đều
giống
với
các
vi
phạm
trong
giao
dịch
ngoại
tệ.
Đến
khi
NHNN
trình
Chính
phủ
dự
thảo
Nghị
định
về
quản
lý
hoạt
động
kinh
doanh
vàng,
chủ
trương
đồng
nhất
cách
quản
lý
vàng
và
ngoại
tệ
(hay
chính
xác
hơn
là
đô
la
Mỹ)
xem
ra
đã
rõ
ràng.
Sản
xuất
vàng
miếng
là
hoạt
động
có
điều
kiện
và
NHNN
đã
soạn
dự
thảo
Nghị
định
quản
lý
hoạt
động
kinh
doanh
vàng
theo
hướng
siết
chặt
các
điều
kiện
này.
Nếu
như
hiện
nay
có
tám
đơn
vị
được
phép
sản
xuất
vàng
miếng
thì
theo
dự
thảo
nói
trên
chỉ
có
SJC
là
nhà
sản
xuất
vàng
miếng
duy
nhất
tại
thị
trường
Việt
Nam.
NHNN
thừa
nhận
là
vàng
miếng
SJC
hiện
đang
chiếm
trên
90%
thị
phần,
trong
khi
dự
thảo
lại
qui
định
đơn
vị
phải
chiếm
từ
25%
thị
phần
sản
xuất
vàng
miếng
trong
ba
năm
liên
tiếp
thì
mới
được
thực
hiện
hoạt
động
này.
Vậy
là
từ
độc
quyền
nhóm
sẽ
trở
thành
độc
quyền
hoàn
toàn.
Còn
với
kinh
doanh
vàng
miếng,
những
điều
kiện
của
dự
thảo
cũng
sẽ
loại
khỏi
cuộc
chơi
đa
số
doanh
nghiệp,
bởi
không
nhiều
đơn
vị
đáp
ứng
được
các
yêu
cầu
có
vốn
điều
lệ
từ
100
tỉ
đồng,
có
mạng
lưới
chi
nhánh
ít
nhất
ở
ba
tỉnh,
thành
phố
trực
thuộc
trung
ương
trở
lên.
Kèm
với
đó,
việc
mua
bán
vàng
miếng
sẽ
chỉ
được
thực
hiện
ở
các
đơn
vị
được
NHNN
cấp
phép.
Đối
với
sản
xuất
và
kinh
doanh
vàng
trang
sức,
điều
kiện
có
dễ
dãi
hơn
nhưng
cũng
là
những
hoạt
động
kinh
doanh
có
điều
kiện.
Và
để
sản
xuất
vàng
trang
sức,
mỹ
nghệ
cần
phải
được
NHNN
cấp
giấy
chứng
nhận
đủ
điều
kiện
sản
xuất.
Như
vậy,
cung
vàng
sẽ
vào
khuôn
khổ,
đặc
biệt
sản
xuất
vàng
miếng
sẽ
được
quản
lý
tập
trung
theo
một
đầu
mối
duy
nhất.
Trong
khi
đó,
ở
khía
cạnh
nhu
cầu,
việc
mua
và
nắm
giữ
vàng
miếng
của
mọi
đối
tượng
vẫn
không
bị
hạn
chế,
chỉ
cần
mua
bán
ở
các
đơn
vị
được
phép
mà
thôi.
Nhưng
vàng
không
giống
ngoại
tệ
Không
thể
đồng
nhất
vàng
và
ngoại
tệ,
bởi
đây
là
hai
đối
tượng
rất
khác
nhau
về
nguồn
gốc,
luân
chuyển
và
mục
đích
sử
dụng.
Ở
Việt
Nam,
nếu
loại
bỏ
yếu
tố
đầu
cơ
thì
cung
cầu
về
vàng
và
ngoại
tệ
cũng
rất
khác
nhau.
Cầu
ngoại
tệ
có
thể
do
nhập
khẩu,
trả
nợ
nước
ngoài,
đi
du
lịch
hay
nhu
cầu
nắm
giữ
của
người
dân,
trong
khi
cầu
vàng
chỉ
đơn
giản
là
để
sở
hữu
một
tài
sản
có
tính
an
toàn
cao
trước
những
bất
ổn.
Trong
khi
đó,
cung
vàng
ở
Việt
Nam
chỉ
có
nguồn
nhập
khẩu
(khai
thác
trong
nước
không
đáng
kể)
và
phải
trả
bằng
một
lượng
ngoại
tệ
tương
ứng,
còn
cung
ngoại
tệ
có
thể
đến
từ
nhiều
nguồn
khác
nhau
như
xuất
khẩu,
vay
nước
ngoài,
đầu
tư
nước
ngoài,
kiều
hối…
Vàng
ở
Việt
Nam
phổ
biến
hơn
nhiều
so
với
ngoại
tệ
nói
chung
và
đô
la
Mỹ
nói
riêng.
70%
dân
số
ở
nông
thôn
có
thể
không
cần
đô
la
nhưng
vàng
là
tài
sản
mà
ai
cũng
muốn
nắm
giữ.
Ngoại
tệ
trên
thị
trường
tự
do
có
thể
chỉ
giao
dịch
ở
một
vài
thành
phố
lớn,
thậm
chí
chỉ
vài
con
đường
ở
các
thành
phố
đó
trong
khi
vàng
thì
không
chợ
nào
không
có.
Từ
trước
đến
nay,
người
dân
và
Chính
phủ
vẫn
xem
vàng
là
một
loại
hàng
hóa
hơn
là
ngoại
hối.
Bằng
chứng
là
chúng
ta
quản
lý
xuất
nhập
khẩu
vàng
như
là
hàng
hóa
thông
thường,
cũng
có
hạn
ngạch,
cũng
tính
giá
trị
vào
trong
kim
ngạch
xuất
nhập
khẩu,
còn
trong
nước
thì
người
dân
được
tự
do
mua
bán
mà
không
cần
phải
chứng
minh
mục
đích
sử
dụng
như
ngoại
tệ.
Mặc
dù
phổ
biến
hơn
nhưng
mức
độ
sử
dụng
vàng
trong
thanh
toán
ở
Việt
Nam
ít
hơn
nhiều
so
với
đô
la
Mỹ.
Nếu
có,
thì
vàng
chỉ
có
thể
dùng
trong
thanh
toán
tiền
mua
nhà,
trong
khi
thị
trường
tràn
ngập
các
loại
hàng
hóa
được
niêm
yết
và
thanh
toán
bằng
đô
la
Mỹ
(chỉ
mới
có
vài
chuyển
biến
trong
thời
gian
gần
đây).
Với
những
phân
tích
trên,
rõ
ràng
vàng
và
ngoại
tệ
có
cơ
chế
luân
chuyển
trong
nền
kinh
tế
rất
khác
nhau
và
không
có
lý
do
gì
để
áp
dụng
cùng
một
cách
quản
lý.
Phân
tích
cũng
cho
thấy
rằng,
ở
Việt
Nam
cung
vàng
rất
hạn
chế
song
cầu
vàng
thì
vô
cùng.
Trong
khi
đó,
dự
thảo
Nghị
định
lại
đi
siết
chặt
nguồn
cung
mà
không
đả
động
gì
tới
nhu
cầu.
Đó
có
thể
là
căn
nguyên
của
bất
ổn.
Hạn
chế
nhu
cầu
bằng
cách
tiết
giảm
nguồn
cung?
NHNN
khi
soạn
dự
thảo
Nghị
định
cũng
đã
nhận
định
thị
trường
vàng
biến
động
bất
thường
có
nguyên
nhân
trước
hết
từ
hoạt
động
đầu
cơ.
Nhưng
đầu
cơ
có
đất
để
hoạt
động
là
xuất
phát
từ
sự
chậm
trễ
và/hoặc
thiếu
minh
bạch
thông
tin,
từ
nguồn
cung
bị
hạn
chế
hay
từ
những
bất
ổn
của
thị
trường.
Cũng
theo
NHNN,
vàng
miếng
SJC
đang
tạo
ra
thế
độc
quyền
tự
nhiên
do
thị
phần
quá
lớn.
Vậy
chỉ
định
SJC
là
đơn
vị
cung
ứng
duy
nhất
có
phải
là
cách
để
hạn
chế
đầu
cơ,
để
xóa
bỏ
độc
quyền
tự
nhiên
(bằng
cách
tạo
ra
độc
quyền
hoàn
toàn)?
Hiện
nay,
ngoài
SJC,
các
thương
hiệu
vàng
miếng
khác
chưa
tạo
được
niềm
tin
trên
thị
trường,
nhưng
đó
không
phải
là
lý
do
để
xóa
bỏ
chúng.
NHNN
cũng
cho
rằng:
“Khi
vàng
miếng
được
mua
bán
tự
do
thì
vàng
miếng
trở
thành
phương
tiện
thanh
toán
nên
khó
quản
lý”.
Việc
vàng
được
mua
bán
tự
do
và
việc
trở
thành
phương
tiện
thanh
toán
là
không
tương
quan,
hay
chính
xác
là
tương
quan
rất
thấp,
chưa
nói
vàng
hiện
được
dùng
trong
thanh
toán
khá
ít
(như
đã
đề
cập
ở
trên)
thì
không
thể
nói
vàng
đang
là
phương
tiện
thanh
toán
ở
Việt
Nam.
SJC
được
chỉ
định
để
sản
xuất
vàng
miếng,
song
sản
xuất
bao
nhiêu
phải
theo
hạn
mức
của
NHNN.
Không
thể
giải
thích
được
NHNN
sẽ
dựa
vào
đâu
để
ấn
định
hạn
mức
này.
Trong
khi
nhu
cầu
không
bị
hạn
chế
thì
nguồn
cung
lại
phụ
thuộc
vào
ý
chí
của
cơ
quan
quản
lý.
NHNN
định
hạn
chế
nhu
cầu
bằng
cách
tiết
giảm
nguồn
cung?