Vượt
xa
nội
dung
những
hiệp
định
thương
mại
thường
thấy,
hiệp
định
Đối
tác
kinh
tế
chiến
lược
xuyên
Thái
Bình
Dương
(TPP)
mở
ra
viễn
cảnh
xây
dựng
một
khu
vực
tự
do
thương
mại
rộng
lớn
với
những
chuẩn
mực
mới
của
thế
kỷ
21.
Phóng
viên
Sài
Gòn
Tiếp
Thị
đã
trao
đổi
với
TS
Phạm
Duy
Nghĩa
–
giảng
viên
chương
trình
giảng
dạy
kinh
tế
Fulbright,
trưởng
khoa
luật
đại
học
Kinh
tế
TP.HCM,
chủ
biên
cuốn
TPP:
Cơ
hội
nào
cho
Việt
Nam
vừa
ấn
hành
về
những
thách
thức
đang
đặt
ra
trước
cơ
hội
này.
Ông
có
hy
vọng
TPP
sẽ
là
lực
đẩy
buộc
Việt
Nam
giải
quyết
những
điểm
yếu
của
điều
hành
kinh
tế
vĩ
mô?
Không
thể
khẳng
định
tham
gia
TPP
là
chúng
ta
có
ngay
liều
thuốc
để
giải
quyết
tận
gốc
các
điểm
yếu
kém
trong
điều
hành
vĩ
mô.
TPP
chỉ
góp
thêm
một
cơ
hội
và
sức
ép
để
Việt
Nam
giải
quyết
những
vấn
đề
nội
tại.
Vấn
đề
của
Việt
Nam
phải
tự
người
Việt
Nam
giải
quyết,
không
thể
trông
chờ
áp
lực
từ
bên
ngoài.
Sau
sáu
năm
gia
nhập
WTO,
mặc
dù
đã
có
những
đổi
thay
về
thể
chế
đáng
kể,
nhưng
chất
lượng
thể
chế
vẫn
là
một
rào
cản
cho
phát
triển:
tính
minh
bạch
kém,
ưu
ái
đầu
tư
cho
doanh
nghiệp
nhà
nước
một
cách
bất
bình
đẳng,
đầu
tư
công
kém
hiệu
quả,
hiệu
lực
quản
lý
của
chính
quyền
chưa
cao.
Quyền
sở
hữu
còn
dang
dở,
bởi
sự
bảo
hộ
khách
quan
và
hiệu
quả
của
Nhà
nước
đối
với
các
sở
hữu
và
khế
ước
dường
như
thiếu
vắng…
Bỏ
nhiều
công
sức
nghiên
cứu
về
các
nút
thắt
trong
thể
chế
đã
cản
trở
phát
triển
kinh
tế,
ông
nhận
diện
thế
nào
về
những
yếu
kém
trong
quản
trị
quốc
gia,
quản
trị
doanh
nghiệp
nhà
nước?
Theo
đánh
giá
của
ngân
hàng
Thế
giới,
tiếng
nói
của
người
dân
và
trách
nhiệm
giải
trình
của
cơ
quan
nhà
nước
ở
Việt
Nam
được
cho
là
thấp,
chất
lượng
chính
sách
và
năng
lực
điều
hành
kém
cải
thiện,
mức
độ
thực
thi
pháp
luật
tuân
thủ
chế
độ
pháp
quyền
chưa
ổn
định,
thậm
chí
được
đánh
giá
thấp
trong
khu
vực,
tính
công
khai
minh
bạch
của
chính
sách
kém
được
cải
thiện…
Ngược
lại,
nếu
so
sánh
với
người
láng
giềng
khổng
lồ
phương
Bắc,
hơn
một
thập
kỷ
tham
gia
WTO,
nền
kinh
tế
Trung
Hoa
đổi
thay
đáng
kinh
ngạc,
mở
ra
một
kỷ
nguyên
“thuê
ngoài
thể
chế”
để
hiện
đại
hoá
quốc
gia.
Đòn
bẩy
chiến
lược
WTO
đã
thúc
ép
cải
cách
thể
chế
hiệu
quả.
Người
Trung
Hoa
từ
năm
2006
đã
áp
dụng
các
tiêu
chí
quản
trị
doanh
nghiệp
nhà
nước
hiện
đại
của
tổ
chức
Hợp
tác
và
phát
triển
kinh
tế
(OECD),
từ
đó
cải
cách
170
tập
đoàn
quốc
hữu
của
họ
khá
thành
công,
rất
nhiều
tập
đoàn
trở
thành
những
“tay
chơi
toàn
cầu”.
Ngược
lại,
Việt
Nam
đã
không
sử
dụng
được
WTO
để
cải
thiện
quản
trị
doanh
nghiệp
nhà
nước
cũng
như
quản
trị
quốc
gia.
Quan
sát
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
trong
thời
gian
qua,
hầu
hết
đều
gặp
trục
trặc,
không
thể
linh
hoạt,
năng
động,
sáng
tạo
như
doanh
nghiệp
tư
nhân.
Dùng
tài
sản
quốc
gia
để
đầu
tư
kinh
doanh
mà
không
kiểm
soát
được
là
một
rủi
ro
rất
lớn
cho
nền
kinh
tế,
cho
toàn
dân,
cướp
đi
cơ
hội
và
để
lại
gánh
nợ
cho
các
thế
hệ
con
cháu.
Với
Vinashin
và
nhiều
tập
đoàn
kinh
tế
nhà
nước
khác
ở
Việt
Nam,
Nhà
nước
vẫn
tiếp
tục
hỗ
trợ,
ưu
ái,
nguồn
vốn
được
rót
vào
như
một
đặc
ân,
trên
thực
tế
đã
giúp
các
tập
đoàn
này
né
tránh
sức
ép
cạnh
tranh
trong
nước
và
quốc
tế.
Quản
trị
tập
đoàn
kinh
tế
nhà
nước
cũng
chưa
minh
bạch.
Trong
trường
hợp
mất
khả
năng
thanh
toán,
người
ta
thường
thấy
Chính
phủ
can
thiệp
bằng
biện
pháp
hành
chính
để
cứu
sự
đổ
vỡ
của
các
tập
đoàn
này,
với
chi
phí
trải
rộng
ra
cho
toàn
bộ
nền
kinh
tế
quốc
dân
và
cho
thế
hệ
mai
sau.
Để
có
một
doanh
nghiệp
nhà
nước
mạnh,
phải
tôn
trọng
sức
ép
cạnh
tranh,
tôn
trọng
tính
hiệu
quả,
quy
trình
quản
lý
minh
bạch.
Hiện
nay,
khối
tài
sản
quốc
gia
vào
các
doanh
nghiệp
nhà
nước
thực
tế
là
rất
lớn.
Con
số
1.300
doanh
nghiệp
nhà
nước
được
công
bố
mới
chỉ
bao
gồm
những
doanh
nghiệp
100%
vốn
của
Chính
phủ,
các
bộ.
Ngoài
ra
còn
rất
nhiều
doanh
nghiệp
khác
có
một
phần
vốn
của
Nhà
nước,
rất
nhiều
doanh
nghiệp
có
vốn
đầu
tư
từ
các
đoàn
thể,
tổ
chức
xã
hội
có
vốn
từ
ngân
sách.
Con
số
này
lớn
hơn
nhiều,
có
thể
vượt
qua
hàng
chục
ngàn
doanh
nghiệp
được
đầu
tư
từ
ngân
sách
quốc
gia.
Phần
lớn
hiệu
quả
sử
dụng
vốn
ở
doanh
nghiệp
nhà
nước
rất
thấp,
lượng
công
việc
tạo
ra
cũng
rất
thấp
so
với
số
lượng
công
việc
tạo
ra
từ
khối
dân
doanh.
Việt
Nam
đang
đứng
trước
sức
ép
cần
công
khai
và
kiểm
soát
chặt
chẽ
hơn
khối
lượng
tài
sản
rất
lớn
đầu
tư
vào
khu
vực
doanh
nghiệp
có
liên
quan
đến
ngân
sách
quốc
gia,
một
khái
niệm
rộng
hơn
doanh
nghiệp
nhà
nước.
Do
lẫn
một
số
chức
năng,
phải
gánh
trách
nhiệm
thực
thi
một
phần
chính
sách
Nhà
nước
giao
nên
đôi
khi
doanh
nghiệp
nhà
nước
kinh
doanh
với
hiệu
quả
không
cao.
Vì
thế,
phải
minh
bạch
giữa
kinh
doanh
và
những
gì
thuộc
về
chính
sách,
những
nguồn
lực,
khối
tài
sản
được
sử
dụng
thế
nào?
Vấn
đề
thứ
hai,
phải
minh
định
ai
là
ông
chủ
của
doanh
nghiệp
nhà
nước:
uỷ
ban,
Chính
phủ,
hay
bộ?
Nhưng
bộ
làm
sao
quản
lý?
Thực
tế
phải
uỷ
quyền
cho
một
số
cán
bộ,
công
chức
đại
diện…
Quyền
sở
hữu
chồng
chéo,
được
thực
thi
phân
tán
lại
thiếu
kiểm
soát
đã
làm
cho
khối
tài
sản
đầu
tư
vào
doanh
nghiệp
nhà
nước
bị
hao
hụt
trầm
trọng.
TPP
không
phải
bài
thuốc,
mà
chỉ
tạo
thêm
sức
ép.
Hơn
lúc
nào
hết,
cần
minh
định
rõ
ai
thực
hiện
các
quyền
sở
hữu
cụ
thể
nào
trong
doanh
nghiệp
nhà
nước,
kiểm
toán,
đánh
giá
đo
lường
với
mục
tiêu
đề
ra,
kiểm
soát
gắt
gao
doanh
nghiệp
nhà
nước
nhiều
hơn,
tựa
như
các
công
ty
đã
niêm
yết
trên
sàn
chứng
khoán
phải
có
trách
nhiệm
minh
bạch
quản
trị
với
các
cổ
đông.
TPP
được
ký
kết
sẽ
mở
ra
những
cơ
hội
nào
cho
Việt
Nam?
Nội
dung
TPP
chưa
được
đàm
phán
xong,
các
cam
kết
chưa
được
công
bố,
song
thông
tin
về
nội
dung
đàm
phán
thu
lượm
từ
nhiều
nguồn
khác
nhau
tiết
lộ
những
sức
ép
rất
lớn
đang
đặt
ra
cho
Việt
Nam:
xoá
bỏ
hầu
hết
thuế
quan,
mở
cửa
thị
trường,
thắt
chặt
những
chuẩn
mực
bảo
hộ
sở
hữu
trí
tuệ,
tiêu
chuẩn
lao
động,
các
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật,
và
cam
kết
xây
dựng
chính
quyền
minh
bạch…
hướng
tới
xoá
bỏ
rào
cản,
tạo
điều
kiện
cho
hàng
hoá,
dịch
vụ
và
tư
bản
được
lưu
thông
trong
nội
khối
ngày
một
dễ
dàng,
nhà
đầu
tư
an
tâm
hơn
trong
một
môi
trường
thể
chế
ổn
định…
Trong
đó,
yêu
cầu
bảo
hộ
sở
hữu
trí
tuệ
được
nâng
cao,
với
những
chế
tài
khắc
nghiệt
hơn
khi
các
thành
viên
vi
phạm
thương
mại
tự
do.
Rồi
còn
những
thể
lệ
để
kiểm
soát
đầu
tư
công,
đòi
hỏi
công
khai
toàn
bộ
ngân
sách
quốc
gia,
mua
sắm
của
chính
quyền;
quyền
tự
do
lao
động,
bảo
vệ
giới
thợ…
Các
thể
chế
đáp
ứng
chuẩn
mực
và
thông
lệ
quốc
tế,
mang
tính
phổ
cập
toàn
cầu
chính
là
lợi
điểm
tạo
sức
ép
cải
cách
thể
chế
từ
bên
ngoài
giúp
phá
vỡ
sức
ỳ
chống
trả
dai
dẳng
từ
những
thói
quen
cũ.
Gia
nhập
cuộc
chơi
TPP
sẽ
tạo
môi
trường
cạnh
tranh
lành
mạnh,
sòng
phẳng
giữa
các
doanh
nghiệp,
nhất
là
doanh
nghiệp
dân
doanh?
Những
cam
kết
từ
TPP
hy
vọng
sẽ
kích
thích
sự
tìm
hiểu
của
doanh
nghiệp
và
công
chức
Việt
Nam.
Khác
với
đàm
phán
gia
nhập
WTO,
quá
trình
đàm
phán
TPP
mở
ra
cơ
hội
cho
doanh
nghiệp
có
tiếng
nói.
Nỗ
lực
để
kịp
thời
ra
mắt
cuốn
sách
TPP:
Cơ
hội
nào
cho
Việt
Nam,
chúng
tôi
mong
muốn
thông
điệp
“gia
nhập
cuộc
chơi
TPP,
hằng
hà
sa
số
doanh
nghiệp
tư
nhân
năng
động
mới
là
chìa
khoá
cho
phát
triển”
sẽ
lan
toả
tới
toàn
xã
hội.
Nếu
cứ
để
doanh
nghiệp
nhà
nước
né
tránh
sức
ép
cạnh
tranh,
được
ưu
ái
nhiều
độc
quyền
kinh
doanh,
cơ
hội
tiệm
cận
đất
đai
và
tín
dụng
từ
nguồn
lực
của
Nhà
nước,
sẽ
xuất
hiện
những
nhóm
thế
lực
kiểm
soát
tài
nguyên
kinh
tế
của
quốc
gia.
Quốc
gia
nào
cũng
có
doanh
nghiệp
nhà
nước,
nhưng
thường
chỉ
kinh
doanh
những
lĩnh
vực
mà
doanh
nghiệp
tư
nhân
không
làm
được,
hoặc
không
có
động
cơ
để
đầu
tư.
Hy
vọng
với
TPP,
các
thể
chế
sẽ
được
cải
cách
để
thúc
đẩy
khu
vực
tư
nhân
phát
triển.
TPP
chỉ
góp
thêm
một
cơ
hội
và
sức
ép
để
Việt
Nam
giải
quyết
những
vấn
đề
nội
tại.
Vấn
đề
của
Việt
Nam
phải
tự
người
Việt
Nam
giải
quyết,
không
thể
trông
chờ
áp
lực
từ
bên
ngoài.
|
TPP
buộc
các
doanh
nghiệp
phải
quan
tâm,
hiểu
những
luật
chơi
khi
thị
trường
mở
rộng
đáng
kể,
nhất
là
thị
trường
Hoa
Kỳ,
khi
thuế
suất
được
cam
kết
giảm,
sẽ
tạo
cơ
hội
cho
những
ngành
như
da
giày,
dệt
may
xuất
khẩu,
đồ
gỗ,
linh
kiện
lắp
ráp.
Nhưng
ngược
lại,
Việt
Nam
cũng
mở
cửa
cho
các
nước
nội
khối
TPP,
những
ngành
từng
được
bảo
hộ
cao
ở
Việt
Nam
như
lắp
ráp
ôtô
chắc
chắn
sẽ
gặp
khó
khăn.
Ngành
chăn
nuôi,
sản
phẩm
nông
nghiệp
của
họ
tiên
tiến
hơn,
chất
lượng
tốt
hơn,
khi
thuế
quan
giảm
sản
phẩm
nội
địa
của
nước
ta
sẽ
bị
thách
thức.
TPP
hy
vọng
cũng
sẽ
dẫn
đến
tái
phân
bổ
về
đầu
tư
và
thu
hút
đầu
tư
nước
ngoài.
Những
sản
phẩm
dệt
may
Việt
Nam
vừa
có
cơ
hội,
nhưng
cũng
đứng
trước
nhiều
thách
thức
nếu
không
chứng
minh
được
quy
tắc,
tiêu
chuẩn,
giấy
chứng
nhận
về
xuất
xứ
hàng
hoá.
Kéo
theo
luồng
đầu
tư
từ
Trung
Quốc,
Hàn
Quốc,
chuyển
dịch
đầu
tư
hy
vọng
Việt
Nam
có
thêm
giá
trị
gia
tăng,
sử
dụng
đầu
tư
nước
ngoài
như
những
cú
hích.
Ngành
lắp
ráp
xe
máy
hình
như
đã
là
một
ví
dụ
thành
công
khi
tỷ
lệ
nội
địa
hoá
sản
phẩm
cao.
Nếu
Chính
phủ
Việt
Nam
khuyến
khích
đầu
tư
nước
ngoài
có
trọng
điểm
trong
khi
doanh
nghiệp
tư
nhân,
các
ngành
công
nghệ
phụ
trợ
phát
triển,
FDI
sẽ
có
hiệu
ứng
lan
toả.
Còn
nếu
FDI
chỉ
để
sử
dụng
nguồn
lao
động
rẻ
thì…
coi
như
là
mở
cửa
dâng
hiến
thị
trường,
chúng
ta
góp
lao
động
của
các
thế
hệ
công
nhân
trẻ
tuổi
và
tài
nguyên
cũng
như
môi
trường
sống
của
quốc
gia
để
làm
giàu
cho
tư
bản
nước
ngoài.
TPP
có
là
cơ
hội
để
mỗi
người
lao
động
hiểu
và
giành
lấy
quyền
chính
đáng
của
mình?
Khi
đặt
bút
ký
TPP,
Việt
Nam
cần
xem
xét
thực
tiễn
pháp
luật
có
điểm
nào
lệch
so
với
những
cam
kết
từ
TPP
hay
không?
Nếu
không
nghiêm
túc
làm
như
vậy,
tôi
e
rằng
thực
tiễn
pháp
lý
nước
ta
có
thể
là
nguyên
cớ
dẫn
tới
những
vụ
khiếu
kiện
tiềm
ẩn
sau
này.
TPP
như
chúng
tôi
tìm
hiểu
không
có
nội
dung
đáng
kể
nào
cam
kết
về
nhân
quyền
hay
tự
do
dân
chủ,
song
có
nhiều
cam
kết
về
tiêu
chuẩn
và
việc
bảo
vệ
quyền
lợi
giới
thợ,
ví
dụ
quyền
thành
lập
hội
đoàn.
Hiến
pháp
Việt
Nam
đều
ghi
quyền
tự
do
lập
hội.
Tuy
nhiên,
những
cuộc
đình
công
của
công
nhân
Việt
Nam
vừa
qua
đều
xuất
phát
từ
những
vấn
đề
rất
căn
bản
như
bị
quỵt
tiền
lương,
lao
động
phải
làm
việc
quá
sức,
bị
giới
chủ
hành
hung…
Quyền
của
giới
thợ
bắt
đầu
từ
quyền
được
bảo
vệ
nhân
phẩm,
danh
dự
của
mình.
Nếu
bị
khinh
bỉ,
ngược
đãi,
đánh
đập,
công
nhân
phải
có
quyền
chống
lại
các
hành
vi
đó
để
bảo
vệ
nhân
phẩm
của
mình.
Nếu
bị
kiện
vì
pháp
luật
quốc
nội
không
bảo
vệ
quyền
của
giới
thợ,
sau
khi
được
tài
phán
bởi
một
thiết
chế
tựa
như
trọng
tài
giải
quyết
tranh
chấp
giữa
các
nhà
đầu
tư
với
các
quốc
gia
nội
khối
TPP,
các
quốc
gia
khác
sẽ
giành
quyền
rút
lại
những
ưu
đãi
thuế
quan
trước
đó.
Đừng
vội
mơ
dễ
dãi
hưởng
thuế
suất
0%
như
một
bữa
tiệc
mà
không
phải
trả
tiền,
qua
một
đêm
thuế
suất
có
thể
vọt
trở
lại
30%
như
cũ
bởi
vô
số
các
biện
pháp
bảo
hộ
mậu
dịch
tiềm
ẩn
được
che
đậy
khéo
léo
dưới
các
tiêu
chuẩn
kỹ
thuật,
lao
động
hay
môi
trường.
Vấn
đề
thứ
hai
là
các
tổ
chức
công
đoàn
của
Việt
Nam
chưa
đủ
mạnh
mẽ
để
bảo
vệ
lợi
ích
công
nhân.
Miếng
cơm
manh
áo
của
cán
bộ
công
đoàn
có
khi
còn
lệ
thuộc
vào
giới
chủ,
nên
rất
khó
khăn
khi
chống
lại
sức
ép
của
giới
chủ.
TPP
(Trans-Pacific
Strategic
Economic
Partnership
Agreement) là
một
hiệp
định
–
thoả
thuận
thương
mại
tự
do
với
mục
đích
hội
nhập
các
nền
kinh
tế
thuộc
khu
vực
châu
Á
–
Thái
Bình
Dương.
Thoả
thuận
ban
đầu
được
các
nước
Brunei,
Chile,
New
Zealand
và
Singapore
ký
vào
tháng
6.2005.
Việt
Nam
tuyên
bố
tham
gia
TPP
từ
ngày
13.11.2010.
Hiện
12
nước
thành
viên
TPP
(Úc,
Brunei,
Canada,
Chile,
Nhật
Bản,
Malaysia,
Mexico,
New
Zealand,
Peru,
Singapore,
Hoa
Kỳ
và
Việt
Nam)
đang
tiếp
tục
bàn
thảo
nhằm
đạt
sự
thống
nhất
rộng
rãi
vào
tháng
10
và
sẽ
ký
hiệp
định
vào
cuối
năm
nay.