Đây
là
bài
thứ
hai
trong
chuỗi
bài
viết
của
Economist
phân
tích
nguyên
nhân
dẫn
đến
khủng
hoảng
tài
chính
và
những
bài
học
được
rút
ra
từ
những
gì
đã
diễn
ra
trong
suốt
5
năm
qua.
Bài
báo
này
sẽ
tập
trung
phần
tích
vai
trò
của
nợ
và
giải
chấp
(deleveraging)
trong
khủng
hoảng.
Thay
vì
nhìn
vào
số
nợ,
một
số
nhà
kinh
tế
học
khác
lại
nhìn
vào
số
tiền
cho
vay.
Họ
cho
rằng
rắc
rối
sẽ
xuất
hiện
nếu
tăng
trưởng
tín
dụng
lớn
hơn
nhiều
so
với
tăng
trưởng
GDP
(như
ở
Mỹ
trước
khủng
hoảng
2008,
ở
Nhật
năm
1991
và
ở
châu
Á
trước
khủng
hoảng
1997).
Theo
Claudio
Borio
và
các
đồng
nghiệp
tại
Ngân
hàng
Thanh
toán
quốc
tế,
các
nền
kinh
tế
có
thể
trì
trệ
trong
thời
gian
dài.
Trong
khi
chu
kỳ
kinh
tế
bao
gồm
các
giai
đoạn
thu
hẹp
hoặc
mở
rộng
của
tăng
trưởng
và
lạm
phát,
chu
kỳ
tài
chính
bao
gồm
những
biến
động
dài
hơn
và
rộng
hơn
của
tín
dụng
và
giá
tài
sản.
Vai
trò
của
tăng
trưởng
tín
dụng
Tại
sao
thi
thoảng
tăng
trưởng
tín
dụng
lại
đột
ngột
tăng
hoặc
giảm?
Theo
Richard
Werner
-
giáo
sư
đến
từ
ĐH
Southampton,
có
thể
điều
này
phụ
thuộc
vào
mục
đích
sử
dụng.
Nếu
tiền
được
dùng
để
mua
một
chiếc
xe
mới,
nó
đã
góp
phần
tăng
cầu
và
giúp
nền
kinh
tế
tối
đa
hóa
khả
năng
sản
xuất.
Nếu
nền
kinh
tế
đã
hoạt
động
hết
công
suất,
số
tiền
này
sẽ
chỉ
làm
giá
cả
gia
tăng.
Tuy
nhiên,
hoạt
động
cho
vay
của
ngân
hàng
làm
tăng
cả
nợ
và
GDP
danh
nghĩa
và
do
đó
tỷ
lệ
nợ/GDP
không
thay
đổi
nhiều.
Thế
nhưng,
tiền
đi
vay
có
thể
được
dùng
cho
nhiều
hoạt
động
khác,
trong
đó
có
việc
mua
những
tài
sản
đã
tồn
tại
như
nhà
cũ
hoặc
mua
lại
công
ty
khác.
Bởi
vì
những
tài
sản
này
đã
tồn
tại,
hành
vi
mua
không
trực
tiếp
làm
tăng
GDP
(vốn
chỉ
đo
lường
hàng
hóa
và
dịch
vụ
mới).
Do
đó,
nợ
tăng
lên
mà
GDP
không
tăng
lên,
dẫn
đến
tỷ
lệ
nợ/GDP
tăng.
Hơn
nữa,
việc
mua
tài
sản
(như
mua
một
ngôi
nhà)
sẽ
khiến
giá
của
tài
sản
đó
tăng
lên.
Các
chủ
nhà
khác
sẽ
sẵn
sàng
chấp
nhận
nợ
(bởi
họ
cảm
thấy
giàu
có
hơn).
Giá
nhà
tăng
đồng
nghĩa
tài
sản
thế
chấp
tăng
lên
và
người
ta
càng
có
thể
đi
vay
một
cách
dễ
dàng
hơn.
Trong
những
năm
trước
khủng
hoảng,
tài
sản
ròng
của
các
hộ
gia
đình
Mỹ
vẫn
tiếp
tục
tăng
bất
chấp
họ
nợ
ngày
càng
nhiều
bởi
nhà
và
các
tài
sản
khác
tăng
giá
rất
mạnh.
Cuối
cùng,
chu
kỳ
tài
chính
lên
đến
đỉnh
điểm.
Người
đi
vay
nhận
ra
rằng
họ
không
thể
có
thu
nhập
ngang
bằng
với
số
tiền
đã
đi
vay
và
do
đó
khó
có
thể
trả
nợ.
Tại
điểm
này,
chu
kỳ
bị
đảo
ngược:
giá
tài
sản
lao
dốc,
các
điều
kiện
về
tài
sản
đảm
bảo
được
thắt
chặt,
ngân
hàng
thắt
chặt
cho
vay.
Tiếp
theo,
giá
tài
sản
giảm
sâu
hơn
nữa.
Thật
không
may,
có
một
yếu
tố
không
giảm:
nợ.
Tồi
tệ
hơn,
giá
trị
của
các
khoản
nợ
không
hề
giảm
như
giá
tài
sản.
Các
hộ
gia
đình
và
doanh
nghiệp
sẽ
phản
ứng
bằng
cách
"giải
chấp"
(deleveraging),
tìm
mọi
cách
để
giảm
nhẹ
gánh
nặng
nợ
khổng
lồ
đang
đè
trên
vai.
Họ
có
thể
làm
việc
này
bằng
ba
cách:
phá
sản,
bán
tài
sản
hoặc
chi
tiêu
ít
hơn
so
với
thu
nhập
(và
dùng
số
tiền
thừa
ra
để
trả
nợ).
Mặc
dù
giải
chấp
giúp
cải
thiện
tình
hình
tài
chính
của
các
hộ
gia
đình
và
doanh
nghiệp,
biện
pháp
này
chỉ
khiến
toàn
bộ
nền
kinh
tế
tồi
tệ
hơn.
Do
tiêu
dùng
của
người
này
là
thu
nhập
của
người
kia,
giảm
chi
tiêu
cũng
khiến
thu
nhập
giảm.
Richard
Koo
-
chuyên
gia
đến
từ
Viện
nghiên
cứu
Nomura
-
đã
gọi
hiện
tượng
này
là
"suy
thoái
bảng
cân
đối
kế
toán".
Gánh
nặng
nợ
càng
khiến
nền
kinh
tế
mong
manh
hơn
và
chìm
trong
vòng
luẩn
quẩn
không
thể
trả
nợ
-
hiện
tượng
được
nhà
kinh
tế
học
Irving
Fisher
gọi
là
giảm
phát
nợ
(debt
deflation).
Quá
trình
giải
chấp
của
khu
vực
tài
chính
có
thể
diễn
ra
rất
nhanh
chóng
nhưng
với
mức
độ
rất
sâu.
Sâu
bởi
vì
các
ngân
hàng
nắm
giữ
quá
nhiều
nợ
so
với
nguồn
vốn.
Nhanh
chóng
bởi
vì
các
nghĩa
vụ
nợ
thường
có
thời
hạn
ngắn
hơn
so
với
tài
sản,
khiến
các
ngân
hàng
có
rất
ít
thời
gian
để
sắp
xếp
lại
bảng
cân
đối
kế
toán.
Quá
trình
này
cũng
làm
tổn
hại
đến
toàn
bộ
hệ
thống
và
các
khách
hàng.
Trong
thời
kỳ
2007
-
2008,
khi
các
ngân
hàng
đầu
tư
bán
tháo
chứng
khoán,
cổ
phiếu
chịu
áp
lực
giảm
sâu,
kéo
theo
danh
mục
đầu
tư
của
các
ngân
hàng
khác
cũng
sụt
giảm
nghiêm
trọng.
Ngân
hàng
cũng
bắt
đầu
triệu
hồi
nợ
hoặc
chí
ít
là
ngừng
giải
ngân
các
khoản
vay
mới.
Cuối
cùng,
toàn
bộ
nền
kinh
tế
phải
chịu
đựng
tình
trạng
căng
thẳng
tín
dụng.
Các
nước
nên
làm
gì?
Có
thể
ngăn
chặn
được
kịch
bản
này
hay
không?
Theo
lý
thuyết,
do
các
con
nợ
chi
tiêu
ít
hơn,
người
tiết
kiệm
có
thể
chi
tiêu
nhiều
hơn
và
do
đó
duy
trì
được
tổng
cầu
của
nền
kinh
tế.
Để
khuyến
khích
điều
này,
NHTW
có
thể
cắt
giảm
lãi
suất,
giảm
chi
phí
cho
người
đi
vay
và
khuyến
khích
tiết
kiệm.
Lãi
suất
chính
sách
của
Mỹ
đã
được
giảm
từ
mức
5,25%
của
mùa
hè
năm
2007
xuống
chỉ
còn
0
-
0.25%
từ
tháng
12/2008.
NHTW
Anh
cũng
thực
hiện
động
thái
tương
tự.
Bên
cạnh
đó,
chính
phủ
cũng
có
thể
chi
nhiều
hơn
so
với
số
tiền
thu
được
từ
thuế.
Được
giảm
thuế,
khu
vực
tư
nhân
có
thể
kiếm
được
nhiều
tiền
hơn.
Trong
một
nghiên
cứu
khác,
Sutherland
và
các
đồng
tác
giả
đã
chỉ
ra
rằng
các
doanh
nghiệp
(đặc
biệt
là
công
ty
tài
chính)
càng
vay
nhiều
thì
nợ
công
càng
tăng
lên.
Đây
là
điều
xảy
ra
ở
nhiều
nước
phát
triển
ở
thời
kỳ
hậu
khủng
hoảng,
khi
chi
tiêu
chính
phủ
khổng
lồ
giúp
bù
đắp
những
khoản
cắt
giảm
chi
tiêu
của
các
hộ
gia
đình
và
công
ty,
làm
rộ
lên
cuộc
tranh
luận
về
những
rủi
ro
mà
tình
trạng
này
gây
nên.
Thu
Hương
Theo
Trí
Thức
Trẻ/Economist