Đây
là
bài
thứ
hai
trong
chuỗi
bài
viết
của
Economist
phân
tích
nguyên
nhân
dẫn
đến
khủng
hoảng
tài
chính
và
những
bài
học
được
rút
ra
từ
những
gì
đã
diễn
ra
trong
suốt
5
năm
qua.
Bài
báo
này
sẽ
tập
trung
phần
tích
vai
trò
của
nợ
và
giải
chấp
(deleveraging)
trong
khủng
hoảng.
Nhiều
hộ
gia
đình
ở
Mỹ
không
thể
trả
các
khoản
vay
thế
chấp
mua
nhà
chính
là
dấu
hiệu
dự
báo
về
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
đã
xảy
ra
cách
đây
5
năm.
Mặc
dù
các
khoản
này
không
phải
là
quá
lớn,
một
số
ngân
hàng
đầu
tư
đã
không
thể
chịu
đựng
nổi
với
nguyên
nhân
phần
lớn
là
do
họ
đã
gánh
trên
vai
những
khoản
nợ
khổng
lồ.
Khi
khủng
hoảng
lan
rộng
ra
khắp
khu
vực
tài
chính
trong
thời
kỳ
2007
–
2008,
các
ngân
hàng
và
những
chủ
nợ
khác
vội
vã
ngừng
cho
vay.
Điều
này
ảnh
hưởng
đến
phần
còn
lại
của
nền
kinh
tế.
Suy
thoái
sâu
và
các
gói
cứu
trợ
khổng
lồ
lại
dẫn
đến
tình
trạng
nợ
chính
phủ
tăng
cao.
Tiếp
theo,
thị
trường
hoảng
sợ,
lo
lắng
về
kịch
bản
hàng
loạt
nước
ở
eurozone
vỡ
nợ.
Nguyên
nhân
hay
hệ
quả?
Có
thể
nói,
nợ
là
nguyên
nhân
và
cũng
là
hệ
quả
của
khủng
hoảng.
Các
nhà
kinh
tế
học
thường
nhìn
nhận
nợ
là
một
công
cụ
hữu
hiệu
để
chuyển
tiền
đến
nơi
thực
sự
cần
tiền,
từ
chủ
nợ
(những
người
thừa
tiền)
đến
người
đi
vay
(những
người
thiếu
tiền).
Trước
khi
khủng
hoảng
nổ
ra,
thị
trường
nợ
quốc
tế
phát
triển
cả
về
chiều
rộng
và
chiều
sâu
và
đã
từng
được
coi
là
nhân
tố
hữu
hiệu
để
thúc
đẩy
tăng
trưởng.
Nguyên
nhân
là
bởi
nó
cung
cấp
cho
người
đi
vay
những
khoản
vay
khổng
lồ
với
lãi
suất
ở
mức
thấp.
Tuy
nhiên,
khi
thảm
họa
ập
đến,
từ
vai
trò
của
“chiếc
thang”,
nợ
ngay
lập
tức
trở
thành
“máng
trượt”.
Do
đó,
tìm
ra
thời
điểm
khi
nào
nợ
trở
nên
nguy
hiểm
đã
trở
thành
ưu
tiên
hàng
đầu
của
kinh
tế
học
trong
một
vài
năm
trở
lại
đây.
Có
lẽ,
nợ
chính
là
công
cụ
tài
chính
cổ
xưa
nhất,
thậm
chí
cổ
hơn
cả
tiền.
Các
nhà
khảo
cổ
đã
tìm
thấy
những
mảng
đất
sét
phơi
khô
từ
thời
Babylon
có
khắc
những
giao
ước
nợ.
Những
mảng
đất
sét
được
xác
định
là
có
từ
thế
kỷ
III
trước
Công
nguyên.
Tuy
nhiên,
nợ
không
nhận
được
nhiều
sự
tôn
kính.
Ví
dụ,
ở
Đức,
từ
schuld
(nợ)
cũng
có
nghĩa
là
tội
ác
và
đây
là
tư
tưởng
vẫn
được
nhiều
người
chấp
nhận.
Có
thể,
nguyên
nhân
nằm
ở
chỗ
nợ
là
một
công
cụ
không
mang
tính
tha
thứ:
nợ
phải
được
trả
đầy
đủ
và
đúng
hạn.
Điều
này
giúp
phân
biệt
nợ
với
các
nghĩa
vụ
tài
chính
khác,
ví
dụ
như
cổ
phiếu.
Cổ
phiếu
linh
hoạt
hơn
rất
nhiều
khi
chỉ
hứa
hẹn
sẽ
trả
cho
cổ
đông
một
phần
lợi
nhuận.
Trước
năm
2008,
hầu
hết
các
mô
hình
kinh
tế
không
đề
cập
nhiều
đến
nợ
(đặc
biệt
là
nợ
tư
nhân
nội
địa)
và
càng
không
đề
cập
đến
vỡ
nợ.
Ở
cấp
độ
toàn
bộ
nền
kinh
tế,
người
đi
vay
và
người
cho
vay
sẽ
“triệt
tiêu”
lẫn
nhau:
mỗi
đồng
USD
được
vay
bởi
người
này
sẽ
là
đồng
USD
được
người
khác
cho
vay.
Do
đó,
tổng
nợ
của
toàn
bộ
người
đi
vay
và
tổng
tài
sản
của
toàn
bộ
người
cho
vay
sẽ
bằng
0.
Điều
này
khiến
nợ
trở
nên
không
quan
trọng.
Rõ
ràng
là,
không
thể
đánh
giá
thấp
vai
trò
của
nợ.
Tổng
nợ
của
nền
kinh
tế
cũng
không
có
tổng
bằng
0.
Để
thêm
nợ
vào
các
mô
hình
kinh
tế,
các
nhà
kinh
tế
học
vĩ
mô
phải
đối
mặt
với
nhiều
thao
tác
rắc
rối:
“tính
không
đồng
nhất”
(phân
chia
nền
kinh
tế
thành
con
nợ
và
chủ
nợ)
và
"tính
đứt
quãng"
(các
mối
quan
hệ
kinh
tế
bị
phá
vỡ).
Biện
pháp
thay
thế
là
tập
trung
vào
các
dữ
liệu
lịch
sử
để
tìm
ra
khi
nào
thì
nợ
trở
nên
nguy
hiểm.
Và,
những
mối
nguy
hiểm
lại
phụ
thuộc
vào
việc
ai
sở
hữu
khoản
nợ
(chính
phủ,
hộ
gia
đình,
công
ty
hoặc
các
định
chế
tài
chính)
và
nợ
thuộc
loại
nào
(khoản
vay
trái
phiếu,
ngắn
hạn
hay
dài
hạn)
cũng
như
nợ
được
tính
bằng
đồng
tiền
nào.
Hầu
hết
các
nghiên
cứu
thực
nghiệm
tập
trung
vào
nợ
chính
phủ.
Tuy
nhiên,
cuộc
khủng
hoảng
tài
chính
2008
cho
thấy
rắc
rối
xuất
phát
từ
nợ
của
khu
vực
tư
nhân
(đặc
biệt
là
các
khoản
vay
thế
chấp
-
loại
chiếm
tỷ
trọng
lớn
trong
nợ
của
các
hộ
gia
đình)
và
các
khoản
vay
khổng
lồ
của
ngân
hàng.
Khoản
nợ
của
các
công
ty
phi
tài
chính
đã
đóng
vai
trò
quan
trọng
trong
cuộc
khủng
hoảng
ở
Nhật
Bản
thời
kỳ
đầu
những
năm
1990.
Tuy
nhiên,
điều
tương
tự
không
xảy
ra
đối
với
khủng
hoảng
tài
chính
toàn
cầu
năm
2008.
Hầu
hết
các
công
ty,
hộ
gia
đình
và
chính
phủ
nợ
ngân
hàng
và
các
định
chế
tài
chính
khác
-
đối
tượng
vừa
kéo
dài
các
khoản
vay
vừa
mua
chứng
khoán.
Các
tổ
chức
tài
chính
này
cũng
đi
vay
nợ
từ
người
gửi
tiền,
người
nắm
giữ
trái
phiếu
và
một
loạt
định
chế
tài
chính
khác.
Trong
đó,
các
ngân
hàng
là
người
môi
giới
đi
vay
để
cho
vay.
Họ
nắm
giữ
rất
nhiều
tài
sản
nhưng
đồng
thời
cũng
gánh
những
khoản
nợ
lớn.
Giải
chấp
Trên
thực
tế,
nợ
của
các
công
ty
tài
chính
thường
nhỏ
hơn
nhiều
so
với
nợ
của
chính
phủ,
hộ
gia
đình
và
các
công
ty
phi
tài
chính.
Theo
OECD,
trong
năm
2011,
ngành
tài
chính
của
Luxembourg
có
số
nợ
tương
đương
với
4.900%
GDP.
Đây
là
một
trường
hợp
đặc
biệt.
Tuy
nhiên,
con
số
thống
kê
ở
các
quốc
gia
khác
cũng
đáng
báo
động:
ở
Anh
là
837%
và
ở
Ireland
là
1.434%
GDP.
Khi
các
doanh
nghiệp
hoặc
hộ
gia
đình
nắm
giữ
quá
nhiều
nợ,
giá
tài
sản
mà
họ
nắm
giữ
chỉ
cần
giảm
nhẹ
cũng
có
thể
đẩy
họ
đến
bờ
vực
phá
sản.
Nếu
một
gia
đình
có
ngôi
nhà
trị
giá
100.000
USD
và
vay
ngân
hàng
90.000
USD,
tài
sản
ròng
của
họ
chỉ
là
10.000
USD.
Tuy
nhiên,
nếu
khủng
hoảng
khiến
giá
nhà
giảm
sâu
hơn
nữa,
nhiều
gia
đình
nhận
ra
họ
không
còn
khả
năng
trả
nợ.
Trong
khi
đó,
các
định
chế
tài
chính
(vốn
dùng
tiền
đi
vay
để
đầu
tư)
chịu
cảnh
thua
lỗ
nặng.
Không
chỉ
dễ
bị
tổn
hại
khi
giá
tài
sản
giảm,
nợ
cao
còn
khiến
thu
nhập
biến
động
mạnh.
Các
hộ
gia
đình
chìm
trong
nợ
gặp
nhiều
khó
khăn
khi
chi
tiêu.
Tương
tự,
những
doanh
nghiệp
nặng
nợ
cũng
gặp
khó
khăn
trong
đầu
tư
khi
doanh
thu
của
họ
sụt
giảm.
Để
đánh
giá
những
ảnh
hưởng
của
nợ
đối
với
sự
ổn
định
của
nền
kinh
tế,
Douglas
Sutherland
và
Peter
Hoeller
(đến
từ
OECD)
đã
tính
toán
tỷ
lệ
nợ
so
với
GDP,
rút
ra
các
chu
kỳ
lên
và
xuống.
Họ
lưu
ý
rằng
nợ
của
khu
vực
tài
chính
có
xu
hướng
tăng
vọt
trong
thời
kỳ
kinh
tế
bùng
nổ
trước
khi
lâm
vào
khủng
hoảng.
Sutherland
và
Hoeller
cũng
chỉ
ra
rằng
đây
chính
là
dấu
hiệu
cho
thấy
sự
bùng
nổ
sẽ
đi
đến
hồi
kết.
Và,
nợ
của
khu
vực
tài
chính
càng
lớn
thì
sâu
thoái
càng
sâu
(giống
như
trong
trường
hợp
này).
Điều
tương
tự
cũng
đúng
với
nợ
của
các
hộ
gia
đình.
Hai
nhà
kinh
tế
chỉ
ra
rằng
xác
suất
xảy
ra
khủng
hoảng
ở
mức
khoảng
10%
khi
nợ
của
các
hộ
gia
đình
ở
xung
quanh
mức
10%
GDP.
Tuy
nhiên,
khi
tỷ
lệ
nợ
vượt
quá
10%
GDP
(giống
như
ở
những
nước
bị
ảnh
hưởng
nhiều
nhất
bởi
khủng
hoảng),
xác
suất
lên
tới
40%.
Thu
Hương
Theo
Trí
Thức
Trẻ/Economist