Cả
tháng
nay,
dư
luận
xôn
xao
trước
vấn
đề
ma
trận
sở
hữu
chéo
được
ông
Nguyễn
Xuân
Thành,
thuộc
Chương
trình
giảng
dạy
Kinh
tế
Fullbright
đưa
ra
trong
một
hội
thảo.
Vấn
đề
khó
hiểu
tới
mức
một
vị
lãnh
đạo
của
Ủy
ban
Giám
sát
tài
chính
Quốc
gia,
"thấy
hoa
mắt",
"chắc
ai
cũng
thông
minh,
trừ
tôi".
Là
chuyên
gia
cao
cấp
về
tài
chính,
ông
có
thể
giúp
độc
giả
hiểu
đúng
và
nhanh
nhất
về
hiện
tượng
cũng
như
bản
chất
của
ma
trận
sở
hữu
chéo
này?
Ông
Bùi
Kiến
Thành:-
Phát
biểu
của
vị
lãnh
đạo
rất
thú
vị
bởi
lẽ,
ông
ấy
không
phải
bất
kỳ
ai
mà
là
người
đã
từng
giữ
những
chức
vụ
lãnh
đạo
cao
trong
ngân
hàng
thương
mại.
Việc
một
người
thông
hiểu
về
hệ
thống
ngân
hàng
phải
tự
nhận
là
“không
thông
minh”
như
vậy
có
nghĩa,
vấn
đề
sở
hữu
chéo
ở
Việt
Nam
đang
rất
nghiêm
trọng.
Tiến
sĩ
Nguyễn
Xuân
Thành,
thuộc
Chương
trình
giảng
dạy
Kinh
tế
Fullbright
đã
nghiên
cứu
rất
kỹ
vấn
đề
này,
từ
đó
đi
đến
sơ
đồ
mạng
nhện
sở
hữu
chéo
hiện
nay
ở
các
ngân
hàng.
Gọi
là
ma
trận
cũng
đúng
vì
hoạt
động
của
nó
rất
phức
tạp.
Vấn
đề
sở
hữu
chéo
có
thể
tạm
chia
thành
hai
nhóm
như
sau:
một
là
sở
hữu
chéo
ngân
hàng
-
ngân
hàng,
hai
là
sở
hữu
chéo
nhóm
lợi
ích
–
nhiều
ngân
hàng.
Sở
hữu
chéo
ngân
hàng
–
ngân
hàng
tồn
tại
bởi
lẽ
tại
Việt
Nam,
khi
một
ngân
hàng
thương
mại
mới
được
cấp
giấy
phép
hoạt
động,
giấy
phép
đó
đã
được
được
coi
là
có
giá
trị.
Các
cổ
đông
của
ngân
hàng
mới
được
cấp
phép
phát
hành
cổ
phiếu,
bán
ra
ngoài
với
mức
chênh
lệnh
gấp
2-3
tài
sản
thực
tế
đang
có
và
hưởng
phần
lãi
chênh
lệch.
Những
ngân
hàng
lớn
vì
muốn
đầu
tư
hay
vì
thế
lực,
quan
hệ
mua
cổ
phiếu
của
ngân
hàng
nhỏ
với
mức
giá
cao
hơn
giá
trị
thực,
hoặc
cho
những
ngân
hàng
này
vay
mà
không
giám
định.
Điều
đó
khiến
cho
nếu
ngân
hàng
nhỏ
bị
phá
sản
thì
ngân
hàng
lớn
cũng
bị
lụy
theo.
Tuy
nhiên,
vấn
đề
sở
hữu
chéo
ngân
hàng
–
ngân
hàng
ở
Việt
Nam
hiện
nay
chưa
tới
mức
nghiêm
trọng
lắm.
Gây
nguy
hiểm
nhất
cho
hệ
thống
tài
chính
Việt
Nam
hiện
nay
là
sở
hữu
chéo
nhóm
lợi
ích
–
nhiều
ngân
hàng.
Ví
dụ,
một
người
có
1000
tỷ
đồng
mua
cổ
phần
của
ngân
hàng
A,
lấy
cổ
phần
đó
đến
ngân
hàng
B
để
thế
chấp
vay,
được
thêm
1000
tỷ
đồng
nữa.
Người
đó
sẽ
quay
lại
ngân
hàng
A
để
mua
thêm
cổ
phần
để
được
vay
nhiều
hơn,
hoặc
mua
cổ
phần
của
ngân
hàng
C,
lấy
cổ
phần
của
ngân
hàng
C
để
thế
chấp
vay
ngân
hàng
D,
được
1000
tỷ
đồng
mua
cổ
phần
của
ngân
hàng
E…
Cứ
như
vậy,
chỉ
1000
tỷ
đồng
chạy
thành
ra
5000-7000
tỷ
đồng
bằng
cách
sở
hữu
chéo
tại
nhiều
ngân
hàng.
Vậy
tại
sao
người
ta
lại
làm
như
vậy?
Bởi
những
người
mua
vay
mua
cổ
phiếu,
thành
cổ
đông
lớn
của
ngân
hàng
thì
sẽ
khống
chế,
chi
phối
được
ngân
hàng
đó
để
vay
cho
mục
đích
đầu
tư
cá
nhân
của
mình.
Kết
quả
thanh
tra
của
ngân
hàng
nhà
nước
cho
thấy,
có
những
ngân
hàng
nhỏ,
tổng
số
tín
dụng
huy
động
40.000
–
50.000
tỷ
đồng,
cho
cổ
đông
vay
đến
50-60%
số
đó,
nghĩa
là
ngân
hàng
thương
mại
trở
thành
công
cụ
huy
động
vốn
trong
dân
để
tài
trợ
cho
hoạt
động
sân
sau
của
cổ
đông.
Như
vậy
cả
hệ
thống
ngân
hàng
bị
lún
vào
vấn
đề
sở
hữu
chéo
của
một
số
người.
Các
nước
khác
có
gặp
phải
vấn
đề
như
Việt
Nam
hay
không?
Câu
trả
lời
là
không
bởi
không
ở
đâu
có
chuyện
một
anh
nắm
quyền
cổ
đông
lớn
của
ngân
hàng
thì
sẽ
tự
cho
mình
hoặc
người
quen
của
mình
vay
“vô
tội
vạ”
như
thế.
Nhật
Bản
có
6
tập
đoàn
lớn,
mỗi
tập
đoàn
sở
hữu
một
ngân
hàng
(ví
dụ
Tập
đoàn
Mitsubitshi
có
Ngân
hàng
Mitsubitshi,
Tập
đoàn
Sumimoto
của
Ngân
hàng
Sumitomo
Mitsui…).
Theo
luật,
các
ngân
hàng
này
chỉ
cho
các
doanh
nghiệp
thuộc
Tập
đoàn
vay
không
quá
20%
vốn
điều
lệ,
chứ
không
phải
vì
cùng
thuộc
tập
đoàn
mà
muốn
cho
vay
bao
nhiêu
cũng
được.
|
"Gọi
là
ma
trận
cũng
đúng
vì
hoạt
động
này
ma
quái
trong
mục
đích
cũng
như
cách
thực
hiện".
|
Tại
sao
sở
hữu
chéo
nhóm
lợi
ích,
nhiều
ngân
hàng
lại
gây
nguy
hiểm
nhất
cho
hệ
thống
ngân
hàng?
Và
việc
tồn
tại
ma
trận
sở
hữu
chéo
này
đang
gây
ra
những
hậu
quả
gì
cho
hệ
thống
tài
chính
và
việc
điều
hành
kinh
tế
ở
Việt
Nam,
thưa
ông?
Ông
Bùi
Kiến
Thành:-
Theo
số
liệu
được
báo
cáo
về
Ngân
hàng
Nhà
nước,
tại
nhiều
ngân
hàng
thương
mại,
tín
dụng
bất
động
sản
chiếm
30-40%
tổng
tín
dụng.
Đó
là
chưa
kể
rất
nhiều
doanh
nghiệp
vay
tiền
ngân
hàng
trên
giấy
tờ
là
để
đầu
tư
vào
mục
đích
sản
xuất
kinh
doanh
nhưng
thực
chất
để
đầu
tư
bất
động
sản.
Vậy
việc
dồn
tiền
vào
bất
động
sản
liên
quan
thế
nào
tới
vấn
đề
sở
hữu
chéo
và
an
toàn
của
hệ
thống
ngân
hàng,
cũng
như
toàn
nền
kinh
tế?
Trong
những
năm
qua,
đầu
tư
bất
động
sản
là
hoạt
động
kinh
doanh
siêu
lợi
nhuận.
Các
chủ
dự
án
được
sử
dụng
đất
của
người
nông
dân
chỉ
phải
đền
bù
hoa
màu
với
mức
từ
vài
trăm
ngàn
tới
hơn
1,5
triệu
đồng/m2.
Khi
bán
ra,
giá
bất
động
sản
có
thể
lên
tới
vài
chục
đến
cả
trăm
triệu
đồng/m2,
như
vậy,
lợi
nhuận
từ
các
dự
án
bất
động
sản
từ
mấy
trăm
%
tới
hàng
nghìn
%.
Vì
siêu
lợi
nhuận
như
vậy
nên
các
chủ
dự
án
có
thể
vay
ngân
hàng
với
lãi
suất
rất
cao,
20-30%.
Tới
thời
điểm
này,
bất
động
sản
đang
đưa
ra
những
sản
phẩm
không
có
thị
trường.
Những
căn
hộ
với
mức
giá
từ
20
triệu
đồng/m2
tới
70
triệu
đồng/m2
được
giao
dịch
chủ
yếu
giữa
các
nhà
đầu
cơ,
còn
người
mua
cuối
cùng
để
sử
dụng
thì
rất
ít.
Xét
từ
phía
cầu,
các
giải
pháp
hiện
nay
chưa
tạo
nguồn
tín
dụng
an
toàn,
dễ
tiếp
cận
để
người
dân
vay
mua
nhà.
Các
ngân
hàng
trước
đây
cho
vay
với
lãi
suất
16%,
sau
giảm
thành
10%.
Vừa
rồi
chính
phủ
đưa
ra
cho
vay
với
lãi
suất
6%
trong
vòng
10
năm
nhưng
chính
sách
đó
vẫn
chưa
phù
hợp.
Người
dân
khó
dám
vay
mua
nhà
giá
trị
bằng
20-25
năm
thu
nhập
mà
phải
trả
trong
10
năm.
Nói
cách
khác,
người
dân
có
nhu
cầu
nhà
ở
cũng
không
đào
đâu
ra
tiền
để
mua.
Có
thể
thấy,
bất
động
sản
Việt
Nam
đang
không
có
giải
pháp.
Những
nhóm
lợi
ích
lợi
dụng
sở
hữu
chéo
rút
tiền
huy
động
trong
dân
đưa
vào
những
dự
án
bất
động
sản
là
chính,
giờ
không
rút
ra
được.
Theo
quy
định
của
Basel
II
&
III,
thì
nợ
xấu
của
ngân
hàng
không
được
vượt
quá
2%
trên
tổng
dư
nợ.
Nhưng
theo
số
liệu
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
vừa
công
bố
thì
nợ
xấu
đang
ở
mức
8,6%,
cao
gấp
4
lần
so
với
các
quy
định
của
Basel.
Nếu
dựa
trên
đánh
giá
của
các
tổ
chức
quốc
tế,
nợ
xấu
tại
Việt
Nam
đang
ở
mức
14-15%
thì
mức
chênh
lệch
còn
lớn
hơn
nữa.
Dù
theo
cách
đánh
giá
nào
thì
nợ
xấu
tại
Việt
Nam
đang
ở
ngưỡng
“báo
động
đỏ”
mà
nguyên
nhân
chủ
yếu
do
sở
hữu
chéo
của
các
nhóm
lợi
ích
“chết”
trong
bất
động
sản.
Điều
này
rồi
sẽ
dẫn
tới
đâu?
Khi
một
mắt
xích
trong
ma
trận
sở
hữu
chéo
bị
phá
sản
thì
sẽ
gây
hiệu
ứng
domino,
ảnh
hưởng
tới
toàn
hệ
thống
ngân
hàng.
Hệ
thống
ngân
hàng
lung
lay
thì
toàn
nền
kinh
tế
sẽ
lung
lay.
Liệu
ông
có
thể
lý
giải
vì
sao
ma
trận
sở
hữu
chéo
như
hiện
nay
tồn
tại
được?
Ông
Bùi
Kiến
Thành:-
Theo
thông
lệ,
ngân
hàng
Nhà
nước
có
ban
thanh
tra
với
nhiệm
vụ
phải
thanh
tra
để
áp
dụng
những
quy
định
của
nhà
nước
về
hoạt
động
ngân
hàng
và
xử
lý
kịp
thời
những
sai
phạm.
Để
xảy
ra
tình
trạng
này
nghĩa
là
Ngân
hàng
Nhà
nước
đã
chưa
thực
hiện
đầy
đủ
chức
năng,
nhiệm
vụ
của
mình.
Vậy
đâu
là
nguyên
nhân
của
thực
trạng
này?
Tôi
xin
lấy
một
ví
dụ,
cách
đây
không
lâu,
báo
chí
có
phanh
phui
vụ
việc
một
vị
lãnh
đạo
ngân
hàng
vay
được
9.000
tỷ
đồng
trên
11.000
tỷ
đồng
vốn
điều
lệ
của
ngân
hàng
đó.
Trên
giấy
tờ,
không
phải
chỉ
vị
lãnh
đạo
đó
ký
tên
vay
mà
là
tài
xế,
người
làm
công…
trong
nhà
ông
lãnh
đạo
đó
vay
và
ông
ta
là
người
thụ
hưởng.
Chấp
nhận
giả
định
là
nghiệp
vụ
nhân
viên
ngân
hàng
thương
mại
kém,
hoặc
vì
hám
lãi
suất
mà
ngân
hàng
thương
mại
cố
tình
bỏ
qua
không
thẩm
tra
tính
bất
hợp
lý
của
việc
một
ông
tài
xế
lương
5-7
triệu/tháng
đi
vay
một
khoản
tiền
vài
trăm
hay
vài
nghìn
tỷ
đồng,
khi
đó
buộc
phải
đặt
câu
hỏi,
hoạt
động
giám
sát
của
Ngân
hàng
Nhà
nước
được
thực
hiện
thế
nào
mà
để
xảy
ra
những
vụ
vi
phạm
nghiêm
trọng
như
vậy,
không
nhận
ra
những
khoản
vay
đáng
ngờ
đến
vậy?.
Nếu
năng
lực
nghiệp
vụ
của
ngân
hàng
thương
mại
đó
kém
đến
mức
không
nhìn
thấy
gì
thì
Ngân
hàng
Nhà
nước
phải
xem
lại
và
chịu
trách
nhiệm
về
sự
yếu
kém
của
các
cơ
quan
và
công
chức
trực
thuộc.
Bài
tiếp:
Còn
ma
trận
sở
hữu
chéo,
không
thể
nói
chuyện
tái
cấu
trúc
kinh
tế.
Theo
Hoàng
Hạnh
Báo
Đất
Việt